Gia đình có phải trả nợ thay cho con đã trên 18 tuổi không? Trách nhiệm thanh toán khoản nợ đối với trường hợp cho người đủ tuổi thành niên vay?
Tóm tắt câu hỏi:
Chào Luật Sư. Hiện gia đình chúng tôi đang có một số thắc mắc cần được giải đáp theo căn cứ của pháp luật về vấn đề mượn nợ và không có khả năng chi trả. Gia đình chúng tôi có 1 người con gái, năm nay 37 tuổi (sinh năm 1979), đã có gia đình và 1 con (17 tuổi). Vào khoảng thời gian năm 2003 đã bỏ nhà đi, gia đình tôi cũng không rõ là đi đâu, làm gì, ở với ai cho tới nay, khoảng vài tháng thì có ghé vào thăm gia đình 1 lần, khoảng vài giờ rồi lại đi. Khoảng 2 năm gần đây có nhiều người tự xưng là chủ nợ của con tôi, cho con tôi
1. Nếu bên chủ nợ họ kiện ra tòa án thì gia đình tôi có trách nhiệm bồi thường cho họ hay không vì con gái tôi đã 37 tuổi? Nếu có thì bồi thường thế nào?
2. Các khoản chi phí kiện tụng thì bên nào có trách nhiệm chi trả?
3. Con gái chúng tôi sẽ phải chịu những tội danh nào? Mức án như thế nào? Mong sớm nhận được thư hồi âm để gia đình chúng tôi có hướng giải quyết tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn Luật Sư.?
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
– Bộ Luật Tố tụng dân sự 2004 sửa đổi và bổ sung 2011;
– Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi và bổ sung năm 2009;
– Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12.
2. Luật sư tư vấn:
Hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.
Theo quy định tại Điều 474 “Bộ luật dân sự 2015”:
“Điều 474. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay
1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trong trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.
3. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
4. Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thoả thuận.
5. Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”
Theo đó, trong trường hợp này, con gái của bạn là người vay tiền nên con gái bạn sẽ có nghĩa vụ trả nợ cho bên cho vay. Trong trường hợp bên cho vay khởi kiện yêu cầu con gái bạn trả nợ thì nghĩa vụ trả nợ thuộc về con gái bạn và con của bạn sẽ phải tự chịu trách nhiệm, do con gái bạn đã thành niên và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, nghĩa vụ này không liên quan đến gia đình bạn do chủ thế xác lập giao dịch vay tài sản ở đây là con gái bạn thì con gái bạn đương nhiên phải thực hiện nghĩa vụ đối với giao dịch đó. Gia đình bạn sẽ không phải chịu trách nhiệm trả nợ thay cho con khi con không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng vay tài sản.
Theo quy định của pháp luật, bố mẹ chỉ có thể thực hiện nghĩa vụ dân sự thay cho con khi con mất năng lực hành vi dân sự (với tư cách là người giám hộ ). Hoặc bố mẹ sẽ phải chịu trách nhiệm trả nợ thay trong trường hợp bố mẹ là người bảo lãnh.
Vấn đề bảo lãnh quy định tại Điều 361 “Bộ luật dân sự 2015” như sau:
“Bảo lãnh là việc người thứ ba (say đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.”.
Do đó, nếu không thuộc các trường hợp nêu trên thì gia đình bạn không phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho con gái bạn. Tuy nhiên, gia đình có quyền tự nguyện đứng ra để trả khoản nợ này.
Đối với các khoản chi phí kiện tụng do bên nào chi trả:
Nếu như bên có quyền (bên cho vay) khởi kiện ra Toà án thì theo quy định tại Điều 130 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2004 sửa đổi và bổ sung 2011 thì:
“Nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập trong vụ án dân sự phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí.”
>>> Luật sư
Về Nghĩa vụ nộp án phí sơ thẩm, theo quy định tại Điều 27 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 thì:
” 1. Đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận.
2. Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận”.
Đối với yêu cầu kiện đòi tài sản đã cho vay thì đương sự sẽ phải chịu án phí theo giá trị nhiều hay ít dựa vào giá trị của số tiền mà đương sự tranh chấp.
Con gái bạn sẽ phải chịu tội danh nào:
Nếu giao dịch vay tài sản của con bạn là giao dịch dân sự thông thường thì con gái bạn chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trả tài sản theo quyết định của Tòa án.
Trường hợp con gái bạn có hành vi gian dối ngay từ khi thực hiện giao dịch hoặc có hành vi tẩu tán tài sản, bỏ trốn… nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc sử dụng khoản tiền vay vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả thì hành vi của con gái bạn có dấu hiệu tội phạm (Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản).
Khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi và bổ sung năm 2009 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
“Điều 139: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
1.Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”
Khoản 1 Điều 140 Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi và bổ sung năm 2009 quy định về tội lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản:
“1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.”
Nếu có bạn thuộc một trong các trường hợp này, con gái bạn sẽ chịu trách nhiệm hình sự tùy thuộc vào hành vi và mức độ phạm tội đồng thời con gái bạn phải bồi thường cho bên cho vay do hành vi phạm tội đó gây ra.