Đối tượng của cầm cố tài sản là gì? Hiệu lực và thời hạn của cầm cố tài sản?
Cầm cố tài sản là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mà pháp luật đã ghi nhận bên cạnh những biện pháp bảo đảm như: thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp, bảo lưu quyền sở hữu, cầm giữ tài sản. Khi tham gia vào quan hệ cầm cố tài sản thì các bên tham gia sẽ phải đáp ứng đầy đủ những điều kiện mà pháp luật đã quy định. Vậy đối tượng, hiệu lực và thời hạn của cầm cố tài sản được quy định như thế nào? Bài viết dưới đây của Luật Dương Gia sẽ cung cấp cho bạn đọc nội dung liên quan đến: ” Đối tượng, hiệu lực và thời hạn của cầm cố tài sản”.
Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568
– Cơ sở pháp lý: Bộ luật dân sự 2015.
1. Đối tượng của cầm cố tài sản là gì?
– Tại Điều 309 Bộ luật dân sự 2015 quy định về cầm cố tài sản, theo đó, có thể hiểu cầm cố tài sản là việc bên cầm cố sẽ giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên nhận cầm cố để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ nào đó mà bên cầm cố và bên nhận cầm cố đã tự thoả thuận với nhau trước đó. Việc cầm cố tài sản do các bên tự thoả thuận, tuy nhiên không được trái với những quy định của pháp luật, không được trái với những quy tắc đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục của Việt Nam.
– Về đối tượng của cầm cố
+ Trước hết, tài sản cầm cố phải là một tài sản thuộc quyền sở hữu của bên cầm cố. Trường hợp tài sản đó thuộc sở hữu chung của nhiều người, thì việc cầm cố tài sản đó phải được sự đồng ý của tất cả các đồng chủ sở hữu. Trong thực tế, việc xác định tài sản cầm cố có thuộc sở hữu của người cầm cố hay không là tương đối dễ dàng nếu tài sản đó có giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu. Như vậy, cũng đặt ra câu hỏi: nếu đối tượng của cầm cố là loại tài sản không có đăng ký quyền sở hữu thì việc xác định chủ sở hữu tài sản cầm cố đó sẽ được tiến hành như thế nào? Vấn đề này do bên nhận cầm cố phải tự mình xác định, nếu không xác định được nguồn gốc tài sản thì có thể phải chịu rủi ro như tài sản bị trộm cắp, tài sản mượn, thuê..
+ Đối tượng của tài sản cầm cố chỉ có thể là tài sản, gọi là tài sản cầm cố và vật dùng để cầm cố có thể là động sản hoặc bất động sản. Tài sản cầm cố có thể là vật đặc định (một cái đồng hồ, một lọ cổ, một chiếc xe máy, một con tàu…). Bản chất của cầm cố là tạm thời dịch chuyển quyền chiếm hữu đối với tài sản cho bên nhận cầm cố. Nếu đến hạn bên cầm cố thực hiện xong nghĩa vụ thì bên nhận cầm cố phải trả lại đúng tài sản đó.
Vì vậy vật cầm cố phải là vật đặc định bởi chỉ có vật đặc định mới có thể xác định, phân biệt được so với vật khác thì mới có thể xác định được vật đó của người cầm cố. Bộ luật dân sự không quy định đích xác đối tượng cầm cố phải là vật đặc định, điều này được suy luận từ việc nghĩa vụ của bên nhận cầm cố phải giao lại vật cho bên cầm cố. Tuy nhiên vật cùng loại vẫn có thể trở thành đối tượng cầm cố. Nếu vật cùng loại đã được đặc định hóa bằng một hình thức nào đó thì đương nhiên sẽ được xác định hóa như vật đặc định (đánh số cho một đồ vật, một lô hàng…) còn nếu không được đặc định hóa thì bên nhận cầm cố phải hoàn trả lại cho bên cầm cố số lượng tài sản cầm cố tương đương với chất lượng, không kém hơn chất lượng vật cùng loại đã đem đi cầm cố.
Thực tế này thông thường được áp dụng đối với việc cầm cố ở các cửa hàng vàng bạc và đá quý, trong đó nếu khách hàng mang đến cửa hàng cầm cố loại vàng do một cửa hàng có đóng dấu riêng của một của hàng nào đó thì người nhận cầm cố trở thành sở hữu đối với tài sản và có toàn quyền đối với tài sản như một chủ sở hữu. Trong trường hợp này việc cầm cố đối với các bên được áp dụng tương tự như hợp đồng cho vay, bên cầm cố vay tiền và bên nhận cầm cố vay bên kia tài sản. Điều này cũng có thể được áp dụng đối với vật tiêu hao khi bên nhận cầm cố nhận vật cùng loại và tiêu hao được. Bên nhận cầm cố trở thành chủ sở hữu vật tiêu hao đó và phải trả lại cho bên kia số lượng vật tiêu hao có chất lượng tương đương với vật đã nhận.
+ Vật cầm cố phải là vật được phép chuyển giao: Vật có trong tương lai không thể là đối tượng cầm cố, bởi khi giao kết hợp đồng cầm cố phải có sự chuyển giao thực tế đối với tài sản cầm cổ, người có quyền phải chiếm hữu trên thực tế tài sản cầm cố mới thể hiện đúng tính chất bảo đảm của cầm cố. Tài sản cầm cổ phải thuộc sở hữu của bên cầm cố. Việc giao tài sản cầm cố cho bên có quyền, tạm thời tước bỏ một số quyền năng của người có nghĩa vụ đối với tài sản cầm cố và bên nhận cầm cố có quyền định đoạt tài sản với những điều kiện nhất định “Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận”. Điều đó có thể dẫn đến việc định đoạt tài sản cầm cố và người thứ ba cũng như bên nhận cầm cố có thể trở thành sở hữu đối với tài sản đó. Vì vậy phải có sự chuyển giao quyền sở hữu cho nên tài sản phải thuộc sở hữu của bên cầm cố.
+ Bởi vậy nếu tài sản thuộc sở hữu chung của nhiều người thì phải được sự đồng ý của tất cả các đồng sở hữu chủ. Tuy nhiên sẽ có ngoại lệ trong điều kiện của chúng ta hiện nay bởi các doanh nghiệp nhà nước, các pháp nhân nhà nước quản lý các tài sản nhà nước, những tài sản này thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nước là chủ sở hữu. Cho nên những pháp nhân này không phải là chủ sở hữu đối với tài sản nhưng có thể đem tài sản của mình quản lý đi cầm cố bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Tài sản cầm cố phải thuộc sở hữu của bên cầm cố là quy định rất đặc biệt của pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Việc phân tích quy định này không chỉ có ý nghĩa về lý luận mà còn có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra.
+ Trong các tài sản là động sản, tài sản có đăng ký quyền sở hữu và có tài sản không đăng ký quyền sở hữu. Thực tế khi có các văn bản pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì mới buộc phải đăng ký và sẽ có sự xác nhận về mặt nhà nước tài sản đó thuộc về ai? Tài sản không có văn bản pháp luật chuyên biệt quy định phải đăng ký quyền sợ hữu được suy đoán không cần đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó. Và theo thông lệ, đối với động sản thì người chiếm hữu động sản được xem là chủ sở hữu động sản đó. Người chiếm hữu động sản không có nghĩa vụ dẫn chứng quyền sở hữu của mình, người tranh chấp quyền sở hữu phải chứng minh họ là chủ sở hữu đối với động sản đó. Thông lệ trên đây chỉ được áp dụng đối với những động sản không buộc phải đăng ký quyền sở hữu, còn động sản buộc phải đăng ký quyền sở hữu, chủ sở hữu động sản phải chứng minh tài sản thuộc sở hữu của mình.
2. Hiệu lực và thời hạn của cầm cố tài sản
– Về hiệu lực của cầm cố tài sản: Tại Điều 310 Bộ luật dân sự 2015 quy định về hiệu lực của cầm cố tài sản, theo đó, cầm cố tài sản sẽ được lập thành văn bản- hợp đồng cầm cố tài sản. Hợp đồng cầm cố tài sản được xác lập dựa trên sự thỏa thuận, ý chí tự nguyện của bên cầm cố và bên nhận cầm cố, các bên có thể tự do thỏa thuận về những điều khoản trong hợp đồng( điều khoản thông thường, điều khoản tuỳ nghi, các điều khoản khác..). Kể từ thời điểm giao kết hợp đồng, hợp đồng cầm cố tài sản sẽ phát sinh hiệu lực( trừ những trường hợp bên cầm cố và bên nhận cầm cố có những thỏa thuận khác về phần hiệu lực của hợp đồng cầm cố tài sản). Theo đó, hợp đồng cầm cố tài sản sẽ có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên nhận cầm cố nắm giữ tài sản cầm cố- hiệu lực đối kháng với người thứ ba này phát sinh đối với những trường hợp tài sản cầm cố không phải là bất động sản. Còn đối với tài sản cầm cố là bất động sản hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba sẽ phát sinh kể từ thời điểm đăng ký bất động sản đó.
– Về thời hạn của cầm cố tài sản: pháp luật không quy định rõ về thời hạn cầm cố tài sản, theo đó, thời hạn cầm cố tài sản sẽ do bên nhận cầm cố và bên cầm cố sẽ tự thỏa thuận( các bên có thể tự do thỏa thuận về thời hạn cầm cố tài sản mà các bên cho là phù hợp và hợp lý với cả bên nhận cầm cố và bên cầm cố). Tuy nhiên trong trường hợp các bên không tự thỏa thuận được về thời hạn cầm cố tài sản và không ghi rõ về thời hạn cầm cố tài sản trong hợp đồng cầm cố tài sản thì thời hạn cầm cố tài sản sẽ được tính từ thời điểm bên nhận cầm cố tài sản cho đến khi chấm dứt nghĩa vị được bảo đảm bằng cầm cố tài sản. Khi các bên có thỏa thuận về thời hạn cầm cố tài sản thì bên nhận cầm cố và bên cầm cố sẽ phải ghi rõ về thời hạn cầm cố tài sản trong hợp đồng cầm cố tài sản để tránh được rủi ro, những tranh chấp không đáng có trong quá trình thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.