Đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ Điều 59 BLTTHS đã quy định về những trường hợp người bị tạm giữ bị tạm giữ như sau:
Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Đồng thời tại Điều 59 cũng quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ như sau:
2. Người bị tạm giữ có quyền:
a) Được biết lý do mình bị tạm giữ; nhận quyết định tạm giữ, quyết định gia hạn tạm giữ, quyết định phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
b) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
c) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
d) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá,
g) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng về việc tạm giữ.
3. Người bị tạm giữ có nghĩa vụ chấp hành các quy định của Bộ luật này và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam.
Như vậy có thể thấy chủ thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ phải là người thuộc một trong bốn trường hợp và phải có quyết định tạm giữ:
Mục lục bài viết
1. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp:
Khái niệm về người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hiện chưa được quy định trong BLTTHS 2015 tuy nhiên tại Điều 58 đã quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ thể này. Bên cạnh đó Điều 110 BLTTHS 2015 và Điều 15 Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP quy định về phối hợp giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định về các trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp nếu thuộc một trong các trường hợp khẩn cấp sau đây:
a) Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
c) Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Ở đây chủ thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ có sự thay đổi giữa BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015. Trong khi tại Điều 86 BLTTHS 2003 quy định thì đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp thì đến BLTTHS 2015 đã thay đổi người bị bắt thành người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, nhằm đáp ứng được yêu cầu tính cấp bách của việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp đồng thời phù hợp với khoản 2 Điều 20
2. Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang:
Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó đang thực hiện tội phạm; hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Ngay sau khi thực hiện hành vi phạm tội thì bị phát hiện; là trường hợp mà sau khi thực hiện hành vi phạm tội xong, người phạm tội chưa kịp cất giấu công cụ; phương tiện, tẩu tán tang vật thì bị phát hiện. Phạm tội quả tang có đặc điểm là hành vi phạm tội cụ thể; rõ ràng không cần phải điều tra, xác minh. Về cơ bản ai nhìn thấy cũng có thể; khẳng định đây là người đang thực hiện tội phạm hoặc vừa thực hiện tội phạm [44]. Quy định tại điều 111 BLTTHS thì các trường hợp phạm tội quả tang bao gồm:
+ Đang thực hiện tội phạm thì bị bắt
+ Ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện
+ Bị đuổi bắt
Có thể thấy đây được xác định là một trong những biện pháp ngăn chặn được áp dụng để ngăn chặn tội phạm một cách kịp thời, phù hợp với tình hình tội phạm hiện nay khi BLTTHS 2015 quy định tất cả mọi người đều có thẩm quyền bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang. Tuy nhiên, việc giữ người trong trường hợp phạm tội này phải được tuân thủ các quy định về thẩm quyền và thủ tục tố tụng được quy định tại các Điều 111, Điều 115, Điều 116 BLTTHS. Sau khi bắt người phải giải ngay đến
3. Người bị bắt theo quyết định truy nã:
Điều 2
– Bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu.
– Người bị kết án trục xuất, người chấp hành án phạt trục xuất bỏ trốn.
– Người bị kết án phạt tù bỏ trốn.
– Người bị kết án tử hình bỏ trốn.
– Người đang chấp hành án phạt tù, người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người được hoãn chấp hành án bỏ trốn.
Người bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt, quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt và giải ngay người bị bắt đến
4. Người phạm tội tự thú, đầu thú:
Tại điểm h, I khoản 1 Điều 4 BLTTHS giải thích thuật ngữ tự thú và đầu thú
Tự thú là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện.
Đầu thú là việc người phạm tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình.
BLTTHS 2015 cũng không quy định rõ trường hợp nào người phạm tội tự thú, đầu thú thì bị tạm giữ. Có thể hiểu việc đầu thú, tự thú ở đây người phạm tội đã ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình và có ý thức tự nguyện ra với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình. Sau khi tiếp nhận được nguồn tin tội phạm từ việc đầu thú, tự thú của người phạm tội, nhiệm vụ của cơ quan chức năng là phải xác minh nguồn tin đó và việc áp dụng biện pháp tạm giữ đối với đối tượng này hay không sẽ căn cứ vào tình hình từng trường hợp cụ thể để cơ quan, người tiến hành tố tụng đánh giá và quyết định.
BLTTHS năm 2015 rất nhân văn khi đã quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, dành một chương riêng (Chương XXVIII) tại Phần thứ bảy: “Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi” bởi thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự cho thấy đây là đối tượng chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lý và dễ bị tổn thương. Đối với các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp tạm giữ nói riêng cũng được quy định chặt chẽ những căn cứ, điều kiện nhằm hạn chế tối đa việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi tại Điều 419 BLTTHS, theo đó, tạm giữ chỉ áp dụng đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả, thể hiện rõ nét chính sách tố tụng hình sự của thời kỳ đổi mới, phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em và bảo đảm lợi ích của người dưới 18 tuổi. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi ngoài các điều kiện chung có thể bị tạm giữ về tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ Luật Hình sự. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi ngoài các điều kiện chung có thể bị tạm giữ về tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội, bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, người ra lệnh giữ, lệnh hoặc quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam người dưới 18 tuổi phải thông báo cho người đại diện của họ biết.