Định tội danh đối với tội cưỡng đoạt tài sản được tiến hành trên cơ sở chứng cứ, tài liệu thu thập để được và các tình tiết khách quan của vụ án để đối chiếu, so sánh và kiểm tra, xác định hành vi phạm tội có thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản hay không.
Mục lục bài viết
1. Khái niệm định tội danh đối với tội cưỡng đoạt tài sản:
Tương tự như với tội cướp tài sản, việc định tội danh đối với tội cưỡng đoạt tài sản là hoạt động tố tụng cụ thể của các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng trên cơ sở những dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội phạm của tội cướp tài sản phân tích, đánh giá nhằm xác định hành vi phạm tội đó có thỏa mãn các dấu hiệu của hành vi cưỡng đoạt tài sản, thuộc khoản (khung) cụ thể nào để từ đó ban hành các quyết định tố tụng tương ứng theo quy định pháp luật.
BLHS năm 2015 quy định về tội cưỡng đoạt tài sản như sau: “Người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm...”
Từ quy định của luật thực định, có thể rút ra định nghĩa khoa học về tội cưỡng đoạt tài sản như sau: Tội cưỡng đoạt tài sản là hành vi của một người đủ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS có hành vi cố ý uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản bằng những thủ đoạn đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác làm cho người có trách nhiệm về tài sản lo sợ mà phải giao tài sản cho người phạm tội.
Trên cơ sở các khái niệm định tội danh và tội cưỡng đoạt tài sản đã phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm định tội danh đối với tội cưỡng đoạt tài sản như sau: Định tội danh đối với tội cưỡng đoạt tài sản là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, được tiến hành bằng cách – trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập để được và các tình tiết khách quan của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định hành vi phạm tội có thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản hay không, nếu có thì thuộc điếm, khoản nào của Điều 170 BLHS.
2. Đặc điểm của việc định tội danh đối với tội cưỡng đoạt tài sản:
Thứ nhất, định tội danh đối với tội cưỡng đoạt tài sản là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic được thể hiện với việc xác định xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện có phù hợp (tương đồng) với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tại điều 170 BLHS.
Thứ hai, định tội danh đối với tội cưỡng đoạt tài sản được tiến hành bằng cách – trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết khách quan của vụ án cướp tài sản để đối chiếu, so sánh, kiểm tra để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm quy định tại điều 170 BLHS.
Thứ ba, căn cứ pháp lý của việc định tội danh đối với tội cưỡng đoạt tài sản chính là Bộ luật hình sự (bao gồm Phần chung và Phần các tội phạm), cụ thể là điều điều 170 BLHS. Trong khi đó căn cứ khoa học của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản chính là cấu thành tội phạm này (bốn yếu tố: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm). Cụ thể:
– Khách thể của tội phạm: Hành vi nêu trên xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác (tương tự như khách thể của tội cướp tài sản).
– Mặt khách quan của tội phạm:
Có hành vi đe doạ dùng vũ lực. Được hiểu là hành vi của người phạm tội đe doạ sẽ thực hiện một hành động (hay đe dọa sẽ sử dụng sức mạnh vật chất) để gây thiệt hại cho người bị hại. Mục đích của việc đe doạ này là làm cho người bị hại sợ và giao tài sản cho người phạm tội chiếm đoạt theo đòi hỏi mà người phạm tội đưa ra gắn liền với hành vi đe doạ nêu trên.
Khác với hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực trong tội cướp tài sản, việc đe doạ này không mang tính mãnh liệt và tức thời, người bị hại (người chủ tài sản hoặc người quản lý tài sản) hoàn toàn có điều kiện chuẩn bị đối phó và chưa đến mức làm tê liệt chú ý kháng cự của họ, mà chỉ hạn chế ở chỗ làm cho họ lo sợ ở mức độ nhất định, đồng thời họ vẫn có thời gian để lựa chọn giữa việc kháng cự hay chấp nhận giao tài sản (đây là điểm khác biệt cơ bản giữa tội cướp tài sản với tội này).
Việc đe dọa được thực hiện thông qua hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp.
+ Đe dọa trực tiếp: Người phạm tội thực hiện việc đe dọa bằng lời nói, cử chỉ, hành động ... công khai, trực tiếp với người bị hại.
+ Đe dọa gián tiếp: Người phạm tội thực hiện việc đe dọa thông qua các hình thức như: nhắn tin, điện thoại, thư ... mà không gặp người bị hại.
Các hành vi dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác. Được hiểu là dùng các thủ đoạn gây áp lực rất lớn về tinh thần của người bị hại để buộc họ phải giao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt theo đòi hỏi mà người phạm tội đưa ra, kèm với việc dùng thủ đoạn đó.
Các thủ đoạn thường sử dụng là lợi dụng những lỗi lầm, khuyết điểm của người bị hại mà người phạm tội biết được để đe doạ sẽ làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của họ (ví dụ: Dọa tố cáo bí mật đời tư của một người, mà bí mật này sẽ ảnh hưởng đến danh dự của họ) hoặc dọa gây ảnh hưởng xấu đến các mối quan hệ xã hội khác như các mối quan hệ kinh doanh (Ví dụ: phát hiện nước giải khát đóng chai của một công ty có tạp chất, đã dọa công ty này phải đưa một khoản tiền lớn để người phạm tội không tiết lộ thông tin này ...)
Thời điểm hoàn thành tội phạm này được tính từ lúc người phạm tội thực hiện xong hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn uy hiếp tinh thần người khác kèm theo đòi hỏi về giao tài sản để (với mục đích) chiếm đoạt. Nếu chỉ thuần túy đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn uy hiếp tinh thần mà không có hay không gắn liền với yêu cầu về tài sản để chiếm đoạt thì không cấu thành tội phạm này.
+ Nếu người phạm tội mới có hành vi chuẩn bị công cụ, phương tiện, kế hoạch ... để đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác nhằm chiếm đoạt tài sản nhưng chưa thực hiện được thì vẫn bị truy cứu TNHS về tội này ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
+ Hành vi phạm tội đối với bị hại được thực hiện công khai. Công khai là công khai về hành vi phạm tội chứ không phải công khai bản thân người phạm tội. Vì thực tiễn cũng có trường hợp người phạm tội không lộ mặt bị hại mà chỉ thông qua điện thoại, ... đe doạ sẽ dùng vũ lực nhằm để chiếm đoạt tài sản.
– Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội cưỡng đoạt tài sản là bất kỳ người nào có năng lực TNHS.
– Mặt chủ quan của tội phạm: Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý. Mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.
Về nguyên tắc mục đích chiếm đoạt tài sản phải có trước hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần khác. Nhưng cũng có trường hợp chuyển hóa tội phạm, có nghĩa là người phạm tội đã thực hiện một tội phạm khác, nhưng sau đó lại xuất hiện mục đích chiếm đoạt tài sản, thì cũng phạm vào tội này.
Thứ tư, kết quả của quá trình định tội danh đối với tội cưỡng đoạt tài sản thể hiện thông qua một văn bản áp dụng pháp luật và bởi cơ quan, chủ thể có thẩm quyền do pháp luật quy định. Từ văn bản áp dụng pháp luật đó, sẽ phát sinh các hậu quả mà người phạm tội phải gánh chịu. Các loại văn bản áp dụng pháp luật trong hoạt động định tội danh đối với tội cưỡng đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự tương tự như đối với tội cướp tài sản sản đã trình bày như trên.