Điều kiện tuy bố cá nhân mất tích, cá nhân chết được pháp luật quy định như sau.
Khoản 3 Điều 16
– Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.
– Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau.
– Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.
Vì những lí do khác nhau như chiến tranh, tai nạn và những nguyên nhân khác không thể xác định được cá nhân đó còn sống hay đã chết. Chính vì vậy, nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân cũng như những chủ thể có liên quan khác. Bộ luật dân sự năm 2015 đã có những quy định về điều kiện, thủ tục tuyên bố cá nhân mất tích, cá nhân chết
Tuyên bố mất tích:
– Điều kiện: Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.
Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.
– Hậu quả của việc tuyên bố mất tích:
Việc tuyên bố một người mất tích kéo theo những hậu quả pháp lí nhất định: Tạm thời đình chỉ tư cách chủ thể của người bị tuyến bố là mất tích, tuy nhiên quyết định này không làm chấm dứt tư cách chủ thể của họ. Tài sản của người bị tuyên bố mất tích được quản lí theo quyết định của toà án được quy định tại các điều 65, 66, 67, 69 BLDS về Quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú, Quyền và nghĩa vụ của người quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú và Quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích
Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là mất tích xin li hôn thì toà án giải quyết cho li hôn.
– Hủy bỏ việc quyết định tuyên bố mất tích:
Khi người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích đối với người đó.
Khi có một trong hai trường hợp đó thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, toà án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó mất tích. Người bị tuyên bố mất tích trở về có quyền yêu cầu người quản lí tài sản trả lại tài sản cho mình. Tuy nhiên, quyết định li hôn của vợ hoặc chồng người bị tuyên bố là mất tích vẫn có hiệu lực pháp luật.
Tuyên bố chết:
– Điều kiện:
Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Tùy vào từng trường hợp cụ thể, tòa án xác định ngày chết của người đó trong bản án hoặc quyết định của tòa. Nếu không xác định ngày người đã chết trong bản án hoặc quyết định của toà án thì ngày chết là ngày bản án hoặc quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật. Thông thường, đối với người biệt tích trong các tai nạn, thảm họa, thiên tai thì ngày chết là ngày xảy ra thảm họa, thiên tai đó.
– Hủy bỏ quyết định tuyên bố chết:
Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết.
Quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, trừ trường hợp sau đây:
+ Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa án cho ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 68 của Bộ luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật;
+ Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật.
Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn.
Trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết người này còn sống mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn trả toàn bộ tài sản đã nhận, kể cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng được giải quyết theo quy định của Bộ luật này,
Quyết định của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.