Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Sự ra đời của triết học Mác không phải là một ngẫu nhiên mà là sự kết tinh có tính quy luật của quá trình phát triển lịch sử tư tưởng triết học nhân loại và trên cơ sở các điều kiện kinh tế – xã hội cũng như trình độ phát triển khoa học tự nhiên ở thế kỷ XIX.
Mục lục bài viết
1. Điều kiện kinh tế – xã hội:
Giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển mạnh ở các nước Tây Âu, nhất là ở Anh, Pháp và một phần ở nước Đức. Vượt qua thời kỳ phong kiến, sự phát triển mạnh mẽ của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã chứng minh tính ưu việt của nó so với các chế độ xã hội khác trong lịch sử. Nước Anh và nước Pháp đã trở thành những quốc gia tư bản hùng mạnh, làm động lực cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở châu Âu. Có thể nối, dù với mức độ khác nhau, nhưng châu Âu, đặc biệt là Tây Âu, đã trở thành trung tâm của sự phát triển lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa, làm cơ sở cho sự phát triển về mọi mặt trong đời sống xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản tất yếu tạo ra trong lòng nó một lực lượng đối lập là giai cấp vô sản hiện đại. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Những vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản. Nhưng giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những người công nhân hiện đại, những người vô sản”.
Giai cấp vô sản công nghiệp ra đời, đã tạo ra một quan hệ đối lập ngày càng gay gắt với giai cấp tư sản, biểu hiện của mâu thuẫn về mặt kinh tế giữa trình độ phát triển cao và tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Trong giai đoạn lịch sử này, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đã phát triển ngày càng mạnh mẽ và rộng lớn. Năm 1831 và 1884, nổ ra cuộc khởi nghĩa của công nhân Liông ở Pháp. Năm 1844, cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt Xilêdi ở Đức. Phong trào Hiến chương nước Anh những năm 30 – 40 của thế kỷ XIX, đã tạo ra sự quan tâm đặc biệt và sự tham gia của các tầng lớp tri thức và tư sản tiến bộ. Cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến một yêu cầu mới, yêu cầu phải có một lý luận khoa học dẫn đường, để đưa giai cấp công nhân đi từ đấu tranh tự phát tới đấu tranh tự giác vì lợi ích của giai cấp mình. Chính từ nhu cầu tất yếu đó, một triết học mới ra đời, triết học Mác.
Mặt khác, lý luận chủ nghĩa xã hội không tưởng của Xanh Kimông, Phuriê, Ôoen, về bản chất, không đáp ứng được yêu cầu, lợi ích và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Chỉ có triết học Mác ra đời mới đáp ứng được nhu cầu là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản, cũng như giai cấp vô sản đóng vai trò là vũ khí vật chất của triết học Mác, bởi vì chỉ có triết học Mác mới có khả năng cải tạo chủ nghĩa xã hội không tưởng thành chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Tiền đề lý luận:
Tiền đề lý luận của triết học Mác là biểu hiện quá trình tiếp nhận, trên tinh thần phê phán, những giá trị nổi bật trong triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Sự ra đời của triết học Mác không phải là một hiện tượng biệt lập, tách rời lịch sử triết học nhân loại, mà là kết quả biện chứng của toàn bộ quá trình đó, Chính Ph.Ăngghen, trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, cho rằng từ triết học Hy Lạp cổ đại, đã chứa đựng các hình thức của thế giới quan sau này. Triết học Mác, hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật, là kết quả của sự phát triển của triết học duy vật trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học.
Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng tiền đề lý luận trực tiếp cho triết học Mác ra đời là triết học cổ điển Đức, mà tiêu biểu là triết học Hêghen và Phoiơbắc.
Triết học duy tâm khách quan của Hêghen là đỉnh cao của triết học cổ điển Đức. Ông là người đã trình bày một cách có hệ thống tư tưởng biện chứng duy tâm; đã triển khai những quy luật và các phạm trù của phép biện chứng xuất phát từ “ý niệm tuyệt đối”. C.Mác và Ph.Ăngghen đã triệt để phê phán tính chất duy tâm, thần bí trong triết học Hêghen, nhưng đồng thời cũng đánh giá cao tư tưởng biện chứng của ông.
“Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng. Ở Hêghen, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau cái vỏ thần bí của nó”. Bằng thiên tài của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã cải tạo phép biện chứng duy tâm trở thành phép biện chứng duy vật triệt để nhất, để phép biện chứng duy vật trở thành công cụ nhận thức các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Một trong những đại biểu lớn nhất của triết học cổ điển Đức là Lútích Phoiơbắc. Ông là nhà triết học duy vật. Chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là chủ nghĩa duy vật nhân bản. Ông coi con người – với tư cách là thực thể của giới tự nhiên – là đối tượng nghiên cứu của triết học. Ông đối lập và phủ nhận Hêghen trên cả hai bình diện là bản thể luận và nhận thức luận, đòi vứt bỏ chủ nghĩa duy tâm và cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đánh giá cao chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, nhưng đồng thời cũng phê phán tư duy siêu hình và duy tâm về lịch sử của ông. Chính C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đã nhận thức một cách chính xác đóng góp và hạn chế của Phoiơbắc, làm tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thế giới quan duy vật biện chứng của mình.
Xét trong tiến trình phát triển của lịch sử triết học, sự ra đời của triết học Mác còn là kết quả của sự tiếp nhận trên tinh thần phê phán tinh hoa của lịch sử triết học nhân loại. Sự tiếp nhận đó trên hai phương diện chủ yếu là chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong toàn bộ lịch sử triết học. Ph.Ăngghen viết rằng: “Từ các hình thức muôn hình muôn vẻ của triết học Hy Lạp, đã có mâm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này”.
Đó là tư tưởng kế thừa những hạt nhân hợp lý của lịch sử triết học, là cơ sở cho sự hình thành và phát triển của tất cả các hệ thống triết học, trong đó có triết học Mác. Đồng thời, xuất phát từ những giá trị được kế thừa biện chứng trong kinh tế chính trị học Anh (đại biểu là A.Xmít và Đ.Ricácđô), chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và Anh (đại biểu là Xanh Ximông, S.Phuriê, R.Ôoen), C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định nền tảng vật chất của sự phát triển lịch sử xã hội, sáng tạo nên quan điểm duy vật về lịch sử và dự báo về chủ nghĩa xã hội hiện thực trong tương lai.
3. Tiền đề khoa học tự nhiên:
Vào giữa thế kỷ XIX, con người đã đạt được những thành tựu nổi bật về khoa học tự nhiên. Những năm 40 của thế kỷ XIX, các nhà khoa học tự nhiên như R.Maye (Đức), P.P.Giulo (Anh), E.Kh.Lenxơ (Nga), L.A.Cônđinh (Đan Mạch) đã nghiên cứu về bản chất của quá trình chuyển hóa năng lượng. Từ đó, các nhà khoa học R.Maye và P.P.Giulơ đã phát hiện ra định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Định luật này là sự khẳng định và chứng minh rằng thế giới vật chất vận động và phát triển thông qua quá trình chuyển hóa từ thấp đến cao của các dạng năng lượng. Năng lượng không tự nhiên sinh ra và cũng không bao giờ mất đi. Nó là quá trình chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác, gắn liền với vật chất, vận động. Thế giới thống nhất ở tính vật chất và nguồn gốc đuy nhất của thế giới đó là các quá trình vật chất vận động và phát triển.
Từ những năm 30 của thế kỷ XIX, sinh vật học đã có những kết quả nghiên cứu nổi bật. Một trong những phát hiện đó là học thuyết tế bào của Svan và Slâyđen của Đức. Học thuyết tế bào đã chứng minh rằng tế bào là cơ sở của kết cấu và sự phát triển của thế giới thực vật và động vật. Từ đó, học thuyết tế bào chứng minh tính thống nhất của giới tự nhiên hữu cơ, của toàn bộ quá trình lịch sử của sự sống từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Bản chất của sự sống là một quá trình phát triển biểu hiện tính thống nhất, tính liên hệ của thế giới tự nhiên,
Năm 1859, Đắcuyn, một nhà sinh học nổi tiếng của Anh đã xây dựng lý luận duy vật về nguồn gốc và sự phát triển của các thực thể sinh vật, qua học thuyết tiến hóa. Học thuyết tiến hóa là sự chứng minh có căn cứ về quá trình vận động, biến đổi từ thấp đến cao của động vật và thực vật, thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên và nhân tạo. Đây là cơ sở để khẳng định nguồn gốc duy vật về sự hình thành và phát triển của sự sống, đối lập với sự sáng tạo ra thế giới mang tính chất thần thánh của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên, nhất là trên lĩnh vực vật lý học và sinh học, đã làm thay đổi quan niệm siêu hình về nhận thức thế giới tự nhiên; đồng thời, khẳng định phép biện chứng khách quan của mọi quá trình trong sự vận động và phát triển của thế giới. Khoa học tự nhiên mang tính chất lý luận trong giai đoạn này là tiền đề cho sự ra đời của triết học Mác; cũng như những khái quát của triết học Mác đặt cơ sở về thế giới quan và phương pháp luận cho các lĩnh vực khoa học cụ thể trong việc nhận thức thế giới khách quan.
Rõ ràng, triết học Mác là sản phẩm mang tính quy luật của khoa học và của triết học trong toàn bộ lịch sử tư tưởng của nhân loại. Trong điều kiện lịch sử đó, C.Mác và Ph.Ăngghen là những thiên tài đã khái quát được toàn bộ tiến trình lịch sử và văn hóa tinh thân mà loài người đã đạt được, để xây dựng học thuyết triết học duy vật biện chứng, đáp ứng được nhu cầu nhận thức và cải tạo thực tiễn xã hội mà thời đại lịch sử mới đặt ra.
VILênin viết: “Chủ nghĩa Mác… không nảy sinh ở ngoài con đường phát triển vĩ đại của văn minh thế giới. Trái lại, toàn bộ thiên tài của Mác chính là ở chỗ ông đã giải đáp được những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra. Học thuyết của ông ra đời là sự thừa kế thẳng và trực tiếp những học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong chủ nghĩa xã hội”.