Phòng vệ chính đáng có tính chất phòng ngừa và ngăn chặn đối với những hành vi tấn công xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Vậy điều kiện phòng vệ chính đáng quy định Bộ luật Hình sự như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Điều kiện phòng vệ chính đáng quy định Bộ luật Hình sự:
1.1. Được hiểu như thế nào là phòng vệ chính đáng:
Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 quy định phòng vệ chính đáng chính là hành vi của người vì để bảo vệ được quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, vì để bảo vệ được quyền hoặc lợi ích chính đáng của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà có hành vi chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm đến những lợi ích nói trên. Theo quy định này thì quyền phòng vệ phát sinh khi mà “đang có hành vi xâm phạm” đến quyền hoặc lợi ích chính đáng của cá nhân hoặc “đang có hành vi xâm phạm” đến lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức. Nếu như coi hành vi xâm phạm là sự tấn công của con người thì cơ sở mà làm phát sinh quyền phòng vệ chính là sự tấn công của con người đang hiện hữu. Như vậy, sẽ chỉ có thể nói đến phòng vệ chính đáng khi mà có hành vi của con người đang gây ra các thiệt hại hoặc đe dọa gây ra các thiệt hại cho xã hội, có thể cho người dân hay cho Nhà nước, cơ quan hoặc tổ chức. Thiệt hại đe dọa gây ra có thể cho quyền nhân thân (như tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, …) hoặc cho quyền sở hữu. Hành vi xâm phạm cũng có thể là hành động (ví dụ như hành động cướp, hành động hiếp dâm…) nhưng cũng sẽ có thể là không hành động (ví dụ như bác sĩ không cấp cứu người bị tai nạn mà không có các lí do chính đáng). Hành vi xâm phạm sẽ có thể thoả mãn những dấu hiệu của một cấu thành tội phạm nhưng lại không bắt buộc phải như vậy. Có hành vi không cấu thành tội phạm nhưng vẫn có đòi hỏi phải được ngăn chặn kịp thời để tránh được các thiệt hại như là hành vi đâm, chém người khác của người không có năng lực trách nhiệm hình sự do người đó mắc bệnh tâm thần. Hơn nữa, khi mà đứng trước hành vi xâm phạm thì không phải trong trường hợp nào cũng khẳng định được ngay đó chính là tội phạm hay không phải là tội phạm. Hành vi xâm phạm chính là cơ sở của quyền phòng vệ chính đáng khi mà còn đang xảy ra hoặc khi đe dọa sẽ xảy ra ngay tức khắc. “Đang xảy ra” hoặc là “đe dọa sẽ xảy ra ngay tức khắc” chính là hai khả năng khác nhau của trường hợp mà BLHS gọi là “đang” có hành vi xâm phạm.
1.2. Điều kiện phòng vệ chính đáng:
Qua tất cả các phân tích ở mục trên, có thể khẳng định được rằng để được xem là phòng vệ chính đáng thì phải đảm bảo các điều kiện cụ thể như sau:
– Phải là hành vi vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của những người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức:
Hành vi xâm hại vào quyền và các lợi ích hợp pháp của công dân, xâm hại vào lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức chính là hành vi xâm hại vào những lợi ích nằm trong những quan hệ xã hội mà được pháp luật bảo vệ. Nếu như hành vi xâm hại vào lợi ích bất hợp pháp, lợi ích mà không được pháp luật bảo vệ hay nói cách khác chính là những lợi ích phi pháp thì không được thừa nhận là điều kiện của phòng vệ chính đáng.
– Hành vi xâm hại vào quan hệ xã hội mà được pháp luật bảo vệ phải đang xảy ra:
Hành vi tấn công xâm hại vào những lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ phải là đang xảy ra, tức là đang gây nên các hậu quả hoặc là đang đe dọa gây nên hậu quả đến cho những lợi ích hợp pháp cần phải được bảo vệ. Hành vi xâm hại mà đang xảy ra là hành vi đó đã được bắt đầu, nhưng hành vi đó chưa kết thúc. Như vậy, đang gây thiệt hại hoặc là đe dọa gây thiệt hại ngay tức khắc chính là những hành vi có thật, đang diễn ra và đã bắt đầu nhưng chưa kết thúc là điều kiện tiếp theo để xác định phòng vệ chính đáng.
– Thiệt hại gây ra của hành vi phòng vệ phải là cho chính người có hành vi xâm hại:
Khi hành vi xâm hại đang xảy ra, đang gây ra các thiệt hại hoặc là đe dọa gây thiệt hại ngay tức khắc cho các lợi ích cần được bảo vệ thì phải có hành vi phòng vệ nhằm mục đích để ngăn chặn, hạn chế sự xâm hại một cách thật kịp thời và có hiệu quả. Mục đích của hành vi phòng vệ đó chính là gạt bỏ được sự đe dọa gây ra thiệt hại đang xảy ra trong thực tế, đẩy lùi sự tấn công, ngăn chặn các thiệt hại có thể xảy ra đối với chính người có hành vi xâm hại. Để đạt được các mục đích trên cần thiết phải gây ra thiệt hại cho chính người mà đang có hành vi xâm hại vào các lợi ích cần được bảo vệ. Và sẽ chỉ gây thiệt hại cho chính người có hành vi xâm hại mới có thể ngăn chặn được các hậu quả xảy ra thì hành vi phòng vệ chính đáng mới có ý nghĩa. Chính vì vậy, thiệt hại gây ra cho chính người có hành vi xâm hại được coi là một điều kiện tiếp theo của phòng vệ chính đáng.
– Hành vi chống trả phải mang tính cần thiết.
Tính cần thiết của hành vi chống trả phải được thể hiện rõ ở sự cần phải có hành vi chống trả đó để có thể kịp thời ngăn chặn hành vi tấn công xâm hại vào những lợi ích hợp pháp. Vì vậy, để mà xem xét tính cần thiết của hành vi phòng vệ đối với hành vi tấn công trong phòng vệ chính đáng thì phải đòi hỏi nhìn nhận một cách thật toàn diện,khách quan những tình tiết mà có liên quan đến việc thực hiện hành vi trên theo các nội dung sau đây:
+ Tầm quan trọng của quan hệ xã hội mà được pháp luật bảo vệ đang bị xâm hại.
+ Mức độ thiệt hại do chính hành vi xâm hại đang gây ra hoặc đe dọa gây ra ngay tức khắc.
+ Công cụ, phương tiện, phương pháp… mà được sử dụng để thực hiện hành vi tấn công xâm hại và hành vi phòng vệ.
+ Nhân thân của người mà có hành vi xâm hại.
+ Cường độ tấn công của người mà có hành vi xâm hại và cường độ phòng vệ của người có hành vi phòng vệ.
2. Phòng vệ chính đáng có phải tội phạm:
Như khoản 1 Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 quy định phòng vệ chính đáng chính là hành vi của người vì để bảo vệ được quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, vì để bảo vệ được quyền hoặc lợi ích chính đáng của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà có hành vi chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm đến những lợi ích nói trên. Đặc biệt Điều này có quy định phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. Như vậy, phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
Tuy nhiên nếu như vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì theo quy định của pháp luật người thực hiện hành vi đó phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định về hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Vấn đề này được quy định tại khoản 2 Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017, Điều này quy định rằng vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng chính là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, nó không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của chính hành vi xâm hại. Người mà có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng sẽ phải phải chịu trách nhiệm hình sự theo đúng các quy định của Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017.
Như vậy, có thể khẳng định được rằng, phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm nên người có hành vi gây thiệt hại do phòng vệ chính đáng thì không phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra, nhưng nếu như hành vi đó vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017.