Chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng cho người khuyết tật? Trẻ em bị chậm phát triển có được hưởng trợ cấp xã hội không? Điều kiện để được hưởng trợ cấp xã hội đối với người khuyết tật đặc biệt nặng? Bị mù có được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng?
Tóm tắt câu hỏi:
Chào Luật sư! Tôi muốn hỏi Luật sư vấn đề như sau: anh trai tôi năm nay 25 tuổi bị câm điếc bẩm sinh, hiện đang bị cong vẹo cột sống, ảnh hưởng đến việc sinh hoạt hàng ngày, bệnh đã kéo dài được vài năm, theo tôi được biết, nếu ảnh hưởng đến sinh hoạt trên 12 tháng sẽ được coi là người khuyết tật và được trợ cấp hàng tháng, nhưng gia đình tôi chưa nhận được một đồng nào hỗ trợ, nên tôi muốn hỏi Luật sư trường hợp của anh trai tôi có được trợ cấp hoặc những chính sách gì của nhà nước không? Cảm ơn Luật sư!
Luật sư tư vấn:
Căn cứ Điều 44 Luật khuyết tật năm 2010 quy định về trợ cấp xã hội, hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng như sau:
“- Đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng bao gồm:
+ Người khuyết tật đặc biệt nặng, trừ trường hợp quy định tại Điều 45 của Luật này;
+ Người khuyết tật nặng.
– Đối tượng được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng bao gồm:
+ Gia đình có người khuyết tật đặc biệt nặng đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc người đó;
+ Người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng;
+ Người khuyết tật quy định tại khoản 1 Điều này đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
– Người khuyết tật quy định tại khoản 1 Điều này là trẻ em, người cao tuổi được hưởng mức trợ cấp cao hơn đối tượng khác cùng mức độ khuyết tật.
– Mức trợ cấp xã hội hàng tháng, mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng đối với từng loại đối tượng theo quy định tại Điều này do Chính phủ quy định.”
Theo quy định trên thì có hai đối tượng được hưởng trợ cấp, hỗ trợ kinh phí hàng tháng là đối tượng người bị khuyết tật năng và người bị khuyết tật đặc biệt nặng
+ Khuyết tật nặng: là những người do khuyết tật dẫn đến mất một phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc.
Người khuyết tật nặng khi được Hội đồng giám định y khoa kết luận có khả năng tự phục vụ sinh hoạt nếu có phương tiện trợ giúp một phần hoặc suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%.
+ Khuyết tật đặc biệt nặng: là những người do khuyết tật dẫn đến mất hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn.
Đây là đối tượng không có khả năng tự phục vụ hoặc được hội đồng giám định y khoa kết luận không còn khả năng tự phục vụ hoặc suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
Như vậy, từ các quy định trên, người khuyết tật thuộc đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng thì phải căn cứ vào mức độ khuyết tật. Trong trường hợp này, để có thể được hưởng trợ cấp thì phải xác định được mức độ khuyết tật của anh trai bạn theo thủ tục tại Điều 18 Luật người khuyết tật 2010:
– Khi có nhu cầu xác định mức độ khuyết tật, người khuyết tật hoặc người đại diện hợp pháp của người khuyết tật gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người khuyết tật cư trú.
– Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đơn đề nghị xác định mức độ khuyết tật, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm triệu tập Hội đồng xác định mức độ khuyết tật, gửi thông báo về thời gian xác định mức độ khuyết tật cho người khuyết tật hoặc người đại diện hợp pháp của họ.
– Hội đồng xác định mức độ khuyết tật tổ chức việc xác định mức độ khuyết tật, lập hồ sơ xác định mức độ khuyết tật và ra kết luận.
– Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày có kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã niêm yết và thông báo công khai kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật và cấp giấy xác nhận khuyết tật.
Sau khi xác định được mức độ khuyết tật, gia đình bạn làm hồ sơ để hưởng trợ cấp xã hội, kinh phí chăm sóc hàng tháng theo quy định Điều 20 Nghị định 28/2012/NĐ-CP.
– Hồ sơ đề nghị trợ cấp xã hội bao gồm:
+ Tờ khai thông tin của người khuyết tật theo mẫu quy định của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội;
+ Bản sao Giấy xác nhận khuyết tật;
+ Bản sao Sổ hộ khẩu;
+ Bản sao Giấy khai sinh hoặc chứng minh nhân dân;
+ Bản sao Quyết định của cơ sở chăm sóc người khuyết tật về việc chuyển người khuyết tật về gia đình đối với trường hợp đang sống trong cơ sở bảo trợ xã hội;
+ Giấy xác nhận đang mang thai của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền theo quy định của Bộ Y tế, bản sao Giấy khai sinh của con đang nuôi dưới 36 tháng tuổi đối với trường hợp đang mang thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
– Hồ sơ đề nghị hỗ trợ kinh phí chăm sóc đối với gia đình có người khuyết tật đặc biệt nặng bao gồm:
+ Tờ khai thông tin hộ gia đình theo mẫu quy định của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội;
+ Bản sao Giấy xác nhận khuyết tật;
+ Bản sao Sổ hộ khẩu;
+ Tờ khai thông tin của người khuyết tật theo mẫu quy định của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đối với trường hợp người khuyết tật chưa được hưởng trợ cấp xã hội hoặc bản sao Quyết định hưởng trợ cấp xã hội của người khuyết tật đối với trường hợp người khuyết tật đang hưởng trợ cấp xã hội.
– Hồ sơ đề nghị hỗ trợ kinh phí chăm sóc đối với người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng bao gồm:
+ Đơn của người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) về đủ điều kiện nhận nuôi dưỡng, chăm sóc theo quy định tại Điều 19 Nghị định này;
+ Tờ khai thông tin người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc theo mẫu quy định của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội;
+ Bản sao Sổ hộ khẩu và chứng minh nhân dân của người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc;
+ Tờ khai thông tin của người khuyết tật theo mẫu quy định của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội;
+ Bản sao Sổ hộ khẩu của hộ gia đình người khuyết tật, nếu có;
+ Bản sao Giấy xác nhận khuyết tật;
+ Bản sao Quyết định trợ cấp xã hội hàng tháng của người khuyết tật đối với trường hợp người khuyết tật đang hưởng trợ cấp xã hội.
– Hồ sơ hỗ trợ kinh phí chăm sóc đối với người khuyết tật đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi theo quy định như sau:
+ Trường hợp người khuyết tật chưa được hưởng trợ cấp xã hội, hồ sơ theo quy định tại Khoản 1 Điều này;
+ Trường hợp người khuyết tật đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, hồ sơ bao gồm: Bản sao Quyết định hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng; Giấy xác nhận đang mang thai của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền theo quy định của Bộ Y tế, bản sao Giấy khai sinh của con dưới 36 tháng tuổi.
* Nơi thực hiện thủ tục hành chính: Ủy ban nhân dân cấp xã nơi anh trai bạn đang cư trú.
Mục lục bài viết
1. Chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng cho người khuyết tật
Đây là chế độ trợ cấp cơ bản của bảo trợ xã hội cho người khuyết tật. Theo quy định của Điều 44 Luật khuyết tật năm 2010 quy định những đối tượng khuyết tật được trợ cấp xã hội hàng tháng là: “Người khuyết tật đặc biệt nặng, trừ trường hợp quy định tại Điều45 của Luật này; người khuyết tật nặng”. Theo đó, quy định của pháp luật nước ta hiện nay thì có hai đối tượng là khuyết tật được hưởng trợ cấp, hỗ trợ kinh phí hàng tháng là đối tượng bị:
+ Khuyết tật nặng: là những người do khuyết tật dẫn đến mất một phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc. Đây là đối tượng có khả năng tự phục vụ sinh hoạt nếu có người, phương tiện trợ giúp một phần hoặc suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì đối tượng bị khuyết tật nặng được trợ cấp hàng tháng là hệ số 1.5. Nếu người khuyết tật nặng là người già, trẻ em thì được hưởng hệ số 1.5 (hệ số1 là 180.000 đồng).
+ Khuyết tật đặc biệt nặng: là những người do khuyết tật dẫn đến mất hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn. Đây là đối tượng không có khả năng tự phục vụ hoặc được hội đồng giám định y khoa kết luận không còn khả năng tự phục vụ hoặc suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên. Mức trợ cấp hàng tháng cho người khuyết tật nặng là hệ số 2.0. Nếu là người khuyết tật đặc biệt nặng là người già, trẻ em thì được hưởng mức hệ số trợ cấp là 2.5. Nếu người khuyết tật ở nhiều thành phần thì được hưởng cao nhất.
Như vậy, theo quy định của pháp Luật Việt Nam thì tiêu chí xác định đối tượng trợ cấp chỉ dừng lại ở mức độ khuyết tật chỉ dừng lợi ở mức độ khuyết tật mà không để cập đến vấn đề hoàn cảnh kinh tế, tình trạng tài sản, tình trạng nhân thân.
2. Trẻ em bị chậm phát triển có được hưởng trợ cấp xã hội không?
Tóm tắt câu hỏi:
Chào Luật sư! Tôi có con gái 41 tháng tuổi, cháu bị chậm phát triển, không thể theo học tại trương mầm non bình thường mà phải theo học tại trương chuyên biệt. Vậy con tôi có được hưởng chế độ trợ cấp không? Tôi xin cảm ơn.
Luật sư tư vấn:
Căn cứ Điều 5 Nghị định 136/2013/NĐ-CP quy định về các đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng gồm các đối tượng sau:
– Trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng thuộc một trong các trường hợp quy định sau đây:
+ Bị bỏ rơi chưa có người nhận làm con nuôi;
+ Mồ côi cả cha và mẹ;
+ Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại mất tích theo quy định của pháp luật;
+ Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội;
+ Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành
+ Cả cha và mẹ mất tích theo quy định của pháp luật;
+ Cả cha và mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội;
+ Cả cha và mẹ đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành
+ Cha hoặc mẹ mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội;
+ Cha hoặc mẹ mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
+ Cha hoặc mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
– Người từ 16 tuổi đến 22 tuổi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều này mà đang học phổ thông, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất.
– Trẻ em bị nhiễm HIV thuộc hộ nghèo; người bị nhiễm HIV thuộc hộ nghèo không còn khả năng lao động mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp ưu đãi người có công hàng tháng, trợ cấp hàng tháng khác.
– Người thuộc hộ nghèo không có chồng hoặc không có vợ; có chồng hoặc vợ đã chết; có chồng hoặc vợ mất tích theo quy định của pháp luật và đang nuôi con dưới 16 tuổi hoặc đang nuôi con từ 16 tuổi đến 22 tuổi nhưng người con đó đang học phổ thông, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất (sau đây gọi chung là người đơn thân nghèo đang nuôi con).
– Người cao tuổi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Người cao tuổi thuộc hộ nghèo không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng;
+ Người từ đủ 80 tuổi trở lên không thuộc diện quy định tại Điểm a Khoản này mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng;
+ Người cao tuổi thuộc hộ nghèo không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, không có điều kiện sống ở cộng đồng, đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội nhưng có người nhận chăm sóc tại cộng đồng.
– Trẻ em khuyết tật, người khuyết tật thuộc diện hưởng trợ cấp xã hội theo quy định của pháp luật về người khuyết tật.
Đối với trẻ em khuyết tật được hưởng trợ cấp xã hội theo quy định của pháp luật về người khuyết tật: phải rơi vào trường hợp khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng (trừ trường hợp được nuôi dưỡng trong cơ sở bảo trợ xã hội ) theo quy định của Luật người khuyết tật 2010.
Trong đó:
– Người khuyết tật đặc biệt nặng là những người do khuyết tật dẫn đến mất hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn.
– Người khuyết tật nặng là những người do khuyết tật dẫn đến mất một phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc.
Và để xác định mức độ khuyết tật phải do Hội đồng xác định mức độ khuyết tật do Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) thành lập để thực hiện xem xét mức độ khuyết tật.
Vì vậy, trong trường hợp con của bạn bị chậm phát triển, để được hưởng trợ cấp xã hội theo quy định thì phải có kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật để xem xét mức độ khuyết tật, có thuộc vào trường hợp được hưởng trợ cấp xã hội không?
3. Điều kiện để được hưởng trợ cấp xã hội đối với người khuyết tật đặc biệt nặng
Tóm tắt câu hỏi:
Cho tôi xin hỏi. Ba tôi là cán bộ hưu trí, được Hội đồng giám định y khoa kết luận suy giảm khả năng lao động là 83% nhưng không được hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng đối với người khuyết tật. Như vậy gia đình tôi có thể lập hồ sơ và được hưởng trợ cấp hộ gia đình chăm sóc nuôi dưỡng người khuyết tật đặc biệt nặng sống tại gia đình hay không? Xin cảm ơn!
Luật sư tư vấn:
Tại khoản 1 Điều 2 Luật người khuyết tật năm 2010 có định nghĩa người khuyết tật:
“1. Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.”
Tại Điều 44 Luật người khuyết tật quy định:
“Điều 44. Trợ cấp xã hội, hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng
1. Đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng bao gồm:
a) Người khuyết tật đặc biệt nặng, trừ trường hợp quy định tại Điều 45 của Luật này;
b) Người khuyết tật nặng.
Luật sư
Đối tượng được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng bao gồm:
a) Gia đình có người khuyết tật đặc biệt nặng đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc người đó;
b) Người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng;
c) Người khuyết tật quy định tại khoản 1 Điều này đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
2. Người khuyết tật quy định tại khoản 1 Điều này là trẻ em, người cao tuổi được hưởng mức trợ cấp cao hơn đối tượng khác cùng mức độ khuyết tật.
3. Mức trợ cấp xã hội hàng tháng, mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng đối với từng loại đối tượng theo quy định tại Điều này do Chính phủ quy định.”
Theo đó, những người khuyết tật đặc biệt nặng trừ những người khuyết tật đặc biệt nặng không nơi nương tựa, không tự lo được cho cuộc sống được tiếp nhận vào nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội và người khuyết tật nặng sẽ được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Những người được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng bao gồm: gia đình có người khuyết tật đặc biệt nặng đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc người đó; người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng; người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Tại khoản 3 Điều 4 Nghị định 28/2012/NĐ-CP quy định về xác định mức độ khuyết tật như sau:
“Điều 4. Xác định mức độ khuyết tật
3. Người khuyết tật đã có kết luận của Hội đồng giám định y khoa về khả năng tự phục vụ, mức độ suy giảm khả năng lao động trước ngày Nghị định này có hiệu lực thì Hội đồng xác định mức độ khuyết tật căn cứ kết luận của Hội đồng giám định y khoa để xác định mức độ khuyết tật như sau:
a) Người khuyết tật đặc biệt nặng khi được Hội đồng giám định y khoa kết luận không còn khả năng tự phục vụ hoặc suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;
b) Người khuyết tật nặng khi được Hội đồng giám định y khoa kết luận có khả năng tự phục vụ sinh hoạt nếu có người, phương tiện trợ giúp một phần hoặc suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%;
c) Người khuyết tật nhẹ khi được Hội đồng giám định y khoa kết luận có khả năng tự phục vụ sinh hoạt hoặc suy giảm khả năng lao động dưới 61%.”
Người khuyết tật đặc biệt nặng được xác định khi được Hội đồng giám định y khoa kết luận không còn khả năng tự phục vụ hoặc suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên. Ba của bạn bị suy giảm khả năng lao động 83% nên được xác định là khuyết tật đặc biệt nặng. Căn cứ vào Điều 44 nêu trên thì gia đình sẽ được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng và bố bạn sẽ được trợ cấp xã hội hàng tháng. Căn cứ theo quy định tại Điều 20, 21 Nghị định 28/2012/NĐ-CP, hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội như sau:
+ Tờ khai thông tin của người khuyết tật theo mẫu quy định của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội;
+ Bản sao Giấy xác nhận khuyết tật;
+ Bản sao Sổ hộ khẩu;
+ Bản sao Giấy khai sinh hoặc chứng minh nhân dân;
+ Bản sao Quyết định của cơ sở chăm sóc người khuyết tật về việc chuyển người khuyết tật về gia đình đối với trường hợp đang sống trong cơ sở bảo trợ xã hội;
Bạn sẽ phải nộp hồ sơ tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi gia đình đang cư trú hiện nay. Thời gian giải quyết không quá 42 ngày.
4. Bị mù có được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng?
Tóm tắt câu hỏi:
Chào luật sư. Chị của em được hưởng trợ cấp xã hội từ tháng 11/2013 đến tháng 1/2018 thì bị cắt với lý do là không đủ điều kiện để hưởng tiếp. Nhưng chị của em bị khuyết tật nhìn và bị mù mắt trái. Thế nhưng cán bộ của xã cấp giấy xác nhận mới lại là dạng vận động, em rất bức xúc. Vậy cho em hỏi bị mù như thế có được hưởng trợ cấp nữa không ạ! em cám ơn.
Luật sư tư vấn:
Dựa trên thông tin bạn cung cấp thì hiện tại chị gái của bạn hiện đang bị khuyết tật nhưng bị cắt (tạm dừng) việc hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội với lý do không đủ điều kiện để hưởng tiếp. Trường hợp này, để giải quyết vấn đề của bạn cần xem xét các phương diện sau:
Thứ nhất, về việc Ủy ban nhân dân cấp xã tự cấp lại Giấy xác nhận mức độ khuyết tật cho chị gái bạn khi chị gái của bạn đang hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội theo dạng khuyết tật nhìn.
Theo thông tin, chị của bạn bị khuyết tật nhìn và bị mù mắt trái. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật người khuyết tật năm 2010, người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.
Người khuyết tật thường được phân loại dưới các dạng tật bao gồm: khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ, và các dạng khuyết tật khác. Trong đó theo quy định tại Điều 2 Nghị định 28/2012/NĐ-CP thì:
“Điều 2. Dạng tật
1. Khuyết tật vận động là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển.
2. Khuyết tật nghe, nói là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói hoặc cả nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời nói.
3. Khuyết tật nhìn là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường.
4. Khuyết tật thần kinh, tâm thần là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường.
5. Khuyết tật trí tuệ là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc.
6. Khuyết tật khác là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không thuộc các trường hợp được quy định tại các Khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này.”
Căn cứ theo quy định tại Điều 2 Nghị định 28/2012/NĐ-CP được trích dẫn ở trên, xem xét trong trường hợp của chị bạn, chị của bạn bị mù mắt trái, bị ảnh hưởng và rối loạn về khả năng nhìn, cảm nhận về ánh sáng, màu sắc, hình ảnh trong điều kiện môi trường bình thường nên chị của bạn thuộc dạng khuyết tật nhìn. Trường hợp này, chị của bạn không bị ảnh hưởng, hay hạn chế về khả năng vận động, di chuyển do sự suy giảm hoặc mất chức năng của chân, tay, cổ, mình. Do vậy, việc Ủy ban nhân dân cấp xã tự cấp giấy xác nhận khuyết tật mới cho chị của bạn với dạng khuyết tật vận động là hoàn toàn trái với quy định của pháp luật về khái niệm dạng khuyết tật và tình hình thực tế của chị bạn.
Đồng thời, trong thông tin bạn không nêu rõ, việc cán bộ của Ủy ban nhân dân cấp xã tự ý cấp giấy Xác nhận khuyết tật mới cho chị bạn chuyển từ khuyết tật nhìn sang khuyết tật vận động có thực hiện việc giám định hay thực hiện theo quy trình nào hay không. Bởi theo quy định tại Điều 20 Luật người khuyết tật năm 2010, khi chị gái của bạn đã được cấp Giấy xác nhận khuyết tật dạng khuyết tật nhìn và đã được hưởng trợ cấp bảo trợ từ tháng 11/2013 đến tháng 1/2018 thì trường hợp này, muốn thay đổi hay cấp lại giấy xác nhận khuyết tật khác cần phải thực hiện việc xác định lại mức độ khuyết tật theo quy định tại Điều 18, Điều 19 Luật người khuyết tật năm 2010. Cụ thể:
“Điều 18. Thủ tục xác định mức độ khuyết tật
1. Khi có nhu cầu xác định mức độ khuyết tật, người khuyết tật hoặc người đại diện hợp pháp của người khuyết tật gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người khuyết tật cư trú.
2. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đơn đề nghị xác định mức độ khuyết tật, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm triệu tập Hội đồng xác định mức độ khuyết tật, gửi thông báo về thời gian xác định mức độ khuyết tật cho người khuyết tật hoặc người đại diện hợp pháp của họ.
3. Hội đồng xác định mức độ khuyết tật tổ chức việc xác định mức độ khuyết tật, lập hồ sơ xác định mức độ khuyết tật và ra kết luận.
4. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày có kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã niêm yết và thông báo công khai kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật và cấp giấy xác nhận khuyết tật.
5. Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định chi tiết trình tự, thủ tục, hồ sơ xác định mức độ khuyết tật quy định tại Điều này.”
Trường hợp người khuyết tật, đại diện hợp pháp của người khuyết tật hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan không đồng ý với kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật, hoặc có bằng chứng xác thực về việc xác định mức độ khuyết tật của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật không khách quan, không chính xác thì có quyền lập hồ sơ yêu cầu khám giám định mức độ khuyết tật tại Hội đồng giám định y khoa.
Từ những phân tích nêu trên, việc cấp lại Giấy xác nhận mức độ khuyết tật, thay đổi dạng khuyết tật đã được xác định không phải là việc mà Ủy ban nhân dân cấp xã có thể tùy ý làm mà cần thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Tuy nhiên, do thông tin không nêu rõ, quy trình, trình tự Ủy ban nhân dân cấp xã cấp lại Giấy xác nhận khuyết tật mới cho chị gái của bạn như thế nào, nên bạn cần căn cứ vào tình hình thực tế để xác định cụ thể.
Thứ hai, về việc Ủy ban nhân dân cấp xã tự ý cắt (thôi) việc hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội của chị gái bạn trong khi chị gái bạn đang hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hàng tháng.
Theo thông tin, chị gái của bạn được hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội từ tháng 11/2013 đến tháng 1/2018, điều này có nghĩa là chị gái của bạn đang được xác định là người khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng. Bởi theo quy định tại khoản 6 Điều 5
Trường hợp chị gái của bạn đang hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội thì Ủy ban nhân dân cấp xã không thể tự ý cắt (dừng, thôi) việc hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội của chị gái bạn với lý do không đủ điều kiện để hưởng tiếp. Trường hợp này, khi chị gái của bạn đang hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội thì căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 8
Việc cắt trợ cấp bảo trợ xã hội phải được thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục được quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị định 136/2013/NĐ-CP; khoản 3 Điều 21 Nghị định 28/2012/NĐ-CP, cụ thể:
– Đối tượng người khuyết tật (ở đây là chị của bạn) hoặc người giám hộ của của đối tượng người khuyết tật hoặc tổ chức, cá nhân có liên quan có kiến nghị về việc chị gái của bạn không còn đủ điều kiện hưởng hoặc thay đổi điều kiện hưởng. Hội đồng xét duyệt trợ cấp xã hội sẽ hướng dẫn chị gái bạn làm hồ sơ và trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ, Hội đồng xét duyệt trợ giúp xã hội sẽ thực hiện việc xét duyệt và niêm yết công khai kết quả xét duyệt tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã trong thời gian 07 ngày.
Khi hết thời gian niêm yết, nếu không có khiếu nại thì Hội đồng xét duyệt bổ sung biên bản họp kết luận của Hội đồng xét duyệt vào hồ sơ của đối tượng, trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.
Trường hợp có khiếu nại, trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Hội đồng xét duyệt kết luận và công khai về vấn đề khiếu nại, trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã;
– Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được biên bản kết luận của Hội đồng xét duyệt, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có văn bản (kèm theo hồ sơ của đối tượng) gửi Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội;
– Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ của đối tượng và văn bản đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội có trách nhiệm thẩm định, trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp huyện) quyết định về việc có thôi hưởng trợ cấp xã hội cho đối tượng.
– Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản trình của Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định về việc thôi hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng cho đối tượng. Thời gian điều chỉnh, thôi hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng kể từ tháng ngay sau tháng Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ký quyết định.
Xem xét trong trường hợp của chị gái bạn, bạn khẳng định cán bộ của Ủy ban nhân dân cấp xã tự cấp Giấy xác nhận mới là dạng vận động và cắt (thôi) hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội, nhưng không nói rõ, việc thôi hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội đối với chị gái của bạn được thực hiện như thế nào, có được thực hiện theo đúng quy trình được quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị định 136/2013/NĐ-CP; khoản 3 Điều 21 Nghị định 28/2012/NĐ-CP được phân tích ở trên hay không. Trường hợp không thực hiện đúng quy trình nêu trên thì việc cắt trợ cấp bảo trợ xã hội của chị gái bạn là không có cơ sở.
Như vậy, từ những căn cứ nêu trên, do thông tin bạn không nêu rõ nên bạn cần căn cứ vào tình hình thực tế để có sự xác định cụ thể. Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã tự ý cắt chế độ bảo trợ xã hội của chị gái bạn đồng thời thực hiện việc cấp lại Giấy xác nhận khuyết tật không đúng quy trình, không có cơ sở thì bạn có quyền khiếu nại lên Ủy ban nhân dân cấp xã, hoặc cơ quan cấp trên để được giải quyết. Trường hợp kết quả xác định khuyết tật không đúng với thực tế, gia đình chị gái bạn có quyền yêu cầu giám định tại Hội đồng giám định y khoa để đảm bảo quyền lợi của mình.