Quy định về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa? Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu? Điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực? Những điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực?
Hiện nay pháp luật chung cũng như luật chuyên ngành không có quy định rõ về hợp đồng mua bán hàng hóa, vậy nên chưa có một khái niệm chính thức đối với loại hợp đồng này. Tuy nhiên, chúng ta có thể căn cứ vào khoản 8 Điều 3
Một hợp đồng mua bán hàng hóa chỉ có hiệu lực khi thỏa mãn những điều kiện mà pháp luật quy định. Theo Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
“Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm pháp luật,không trái đạo đức xã hội, người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện; Và hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật”
Nếu thiếu một trong bốn căn cứ trên, giao dịch dân sự sẽ bị coi là vô hiệu. Hợp đồng mua bán hàng hóa theo nghĩa rộng nó cũng là một giao dịch dân sự, vậy nên cần phải đảm bảo các điều kiện này để có hiệu lực. Các bên khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa phải tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc giao kết hợp đồng đó là “ tự do giao kết không trái với pháp luật và đạo đức xã hội; tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng”, đây cũng là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực, nếu các bên vi phạm nguyên tắc này thì đó sẽ là những nguyên nhân làm hợp đồng vô hiệu, ví dụ việc giao kết hợp đồng do bị cưỡng ép, bị lừa dối… Bên cạnh những điều kiện chung có tính nguyên tắc trên đây, để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực cần tuân thủ một số điều kiện khác.
Thứ nhất, về chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa. Các chủ thể tham gia vào hợp đồng cần phải có năng lực chủ thể. Đối với chủ thể là thương nhân cần phải năng lực pháp luật và năng lực hành vi thương mại, còn chủ thể khác không phải là thương nhân phải có năng lực hành vi dân sự. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa một bên phải là thương nhân được thành lập hợp pháp, thực hiện hoạt động thương mại thường xuyên, độc lập và có đăng kí kinh doanh. Trường hợp mua bán sản phẩm, hàng hóa có điều kiện kinh doanh, thương nhân còn phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh đó theo quy định của pháp luật. Trong việc giao kết hợp đồng, nếu các bên không tự mình thực hiện mà cử đại diện thì đại diện của các bên giao kết hợp đồng mua bán phải đúng thẩm quyền. Nếu người đại diện giao kết hợp đồng không có hoặc không dung thẩm quyền, phạm vi đại diện thì hợp đồng đó cũng không phát sinh hiệu lực (trừ trường hợp được người giao đại diện chấp thuận).
Thứ hai, về đối tượng của hợp đồng. Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa phải là những hàng hóa được phép lưu thông trên thị trường, không phải là nhưng hàng hóa thuộc danh mục cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật. Nếu các bên giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa thuộc đôi tượng cấm kinh doanh thì hợp đồng đó mặc nhiên vô hiệu.
Thứ ba về hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo Điều 24
Mục lục bài viết
1. Quy định về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
1. Đề nghị giao kết hợp đồng mua bán:
Đề nghị giao kết hợp đồng có bản chất là hành vi pháp lí đơn phương của một chủ thể, có nội dung bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với chủ thể khác theo những điều kiện xác định. Từ quy định của Điều 386
Đề nghị hợp đồng được gửi đến một hoặc nhiều chủ thể đã xác định. Hiệu lực của nó thông thường do các bên tự ấn định. Trường hợp bên đề nghị không ấn định thời điểm có hiệu lực của đề nghị hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó. Căn cứ xác định bên được đề nghị đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng là khi: Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú hoặc trụ sở của bên được đề nghị. Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị. Bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác.
Bên đề nghị phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình. Trong thời hạn đề nghị hợp đồng có hiệu lực, nếu bên được đề nghị thông báo chấp nhận vô điều kiện đề nghị hợp đồng thì hợp đồng hình thành và ràng buộc các bên. Nếu các bên không thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng thì phải chịu các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng theo thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật.
Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong các trường hợp như: Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút ngắn lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị. Điều kiện thay đổi hoặc rút ngắn lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao kết hợp đồng thực hiện quyền hủy bỏ đề nghị do đã nêu rõ quyền này trong đề nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị và thông báo này chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận được thông báo trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp: bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận. Hết thời hạn trả lời chấp nhận, thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực, theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên nhận đề nghị trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời.
2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mua bán
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị. Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng được xác định khác nhau trong các trường hợp cụ thể như sau:
Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi thực hiện trong thòi hạn đó. Nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời. Trong trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lí do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lí do khách quan này thì thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị.
Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trường hợp qua điện thoại hoặc qua các phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận về thời hạn trả lời. Bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng. Nếu thông báo này đến trước hoặc cùng với thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
3. Thời điểm giao kết hợp đồng mua bán
Về nguyên tắc, hợp đồng được giao kết vào thời điểm các bên đạt được sự thỏa thuận. Thời điểm giao kết hợp đồng được quy định khác nhau phụ thuộc vào cách thức giao kết và hình thức của hợp đồng. Theo quy định của Bộ luật dân sự Điều 400, có thể xác định thời điểm giao kết hợp đồng trong kinh doanh theo các trường hợp như sau:
– Trường hợp hợp đồng được giao kết trực tiếp bằng văn bản: thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau cùng kí tên vào văn bản.
– Trường hợp hợp đồng được giao kết gián tiếp bằng văn bản (thông qua các tài liệu giao dịch): thời điểm đạt được sự thỏa thuận được xác định theo lý thuyết (tiếp nhận), theo đó hợp đồng được giao kết khi bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
– Trường hợp hợp đồng được giao kết hợp đồng bằng lời nói: thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Các bên có thể sử dụng những biện pháp, chứng cứ hợp pháp để chứng minh việc các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng bằng lời nói.
Sự im lặng của các bên được đề nghị đến khi hết thời hạn trả lời cũng có thể là căn cứ xác định hợp đồng đã được giao kết, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng (khoản 2, điều 400 Bộ luật dân sự).
2. Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu:
Hợp đồng vô hiệu nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu nói riêng là hợp đồng không thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực theo quy định của pháp luật. Việc quy định cụ thể các trường hợp hợp đồng vô hiệu có ý nghĩa quan trọng trong việc xử lý một cách hợp lý và hiệu quả các hợp đồng vô hiệu trong các trường hợp khác nhau, bảo vệ lợi ích của các bên trong hợp đồng cũng như lợi ích của các chủ thể có liên quan. Theo quy định của Bộ luật dân sự 2015, các trường hợp hợp đồng vô hiệu được áp dụng theo các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu nói chung, theo đó một hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu trong những trường hợp chủ yếu sau:
– Vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội: Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật có nội dung không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Biểu hiện cụ thể của vi phạm điều cấm trong hợp đồng là các bên thỏa thuận với nhau để thực hiện những công việc mà pháp luật không cho phép thực hiện như: sản xuất, tiêu thụ hàng giả; mua bán, vận chuyển hàng cấm; cung ứng dịch vụ bị cấm thực hiện; dịch chuyển tài sản trái phép hay những thỏa thuận gây thiệt hại cho lợi ích của người thứ ba…Theo cách hiểu thông thường, nội dung hợp đồng gồm toàn bộ cam kết của các bên được thể hiện dưới dạng điều khoản. Nhưng khi xem xét về nội dung của hợp đồng có vi phạm điều cấm của pháp luật hay không, cần lưu ý điều khoản đối tượng của hợp đồng. Khi nội dung của điều khoản này vi phạm điều cấm của pháp luật làm hợp đồng vô hiệu toàn bộ thì các điều khoản hợp pháp khác của hợp đồng cũng sẽ bị vô hiệu theo. Để xác định nội dung của hợp đồng có vi phạm điều cấm của pháp luật hay không, cần lưu ý các quy phạm cấm trong các văn bản pháp luật.
– Vô hiệu do giả tạo: khi các bên giao kết hợp đồng một cách giả tạo nhằm che giấu một hợp đồng khác thì hợp đồng giả tạo vô hiệu, còn hợp đồng bị che dấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp hợp đồng bị che dấu cũng vô hiệu theo quy định của pháp luật.
– Vô hiệu do nhầm lẫn: Một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng mà giao kết, thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của hợp đồng đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
– Vô hiệu do lừa dối: Lừa dối là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng nên đã giao kết hợp đồng đó. Khi một bên giao kết hợp đồng do bị lừa dối thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
– Vô hiệu do bị đe dọa: đe dọa là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải giao kết và thực hiện hợp đồng nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của mình hoặc của cha , mẹ, vợ, chồng, con của mình. Khi một bên giao kết hợp đồng do bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu
– Vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình: người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã giao kết hợp đồng vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó là vô hiệu.
– Vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức: trong trường hợp pháp luật quy định hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.
Ngoài ra cần lưu ý về hai vấn đề: hợp đồng vô hiệu do chủ thể không đảm bảo điều kiện về đăng kí kinh doanh và hợp đồng vô hiệu do người đại diện không đúng thẩm quyền ký kết.
Mặc dù Bộ luật dân sự 2015 không quy định cụ thể về trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu do chủ thể hợp đồng không đảm bảo điều kiện về đăng kí kinh doanh, song có thể suy ra trường hợp vô hiệu này từ các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Một trong các bên kí kết hợp đồng không có đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng sẽ làm cho hợp đồng vô hiệu. Việc không đăng kí kinh doanh để thực hiện công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng thể hiện chủ thể hợp đồng không có năng lực chủ thể để thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng trong kinh doanh. Tuy nhiên, đăng kí kinh doanh chỉ đòi hỏi bắt buộc với chủ thể là thương nhân. Vì vậy nếu pháp luật quy định chủ thể trong một hợp đồng mua bán hàng hóa phải có đăng kí kinh doanh mà bên đó không có đăng kí kinh doanh thì hợp đồng đó bị coi là vô hiệu toàn bộ.
Pháp luật dân sự cũng không quy định trường hợp hợp đồng vô mua bán hàng hóa vô hiệu do được kí kết bởi người đại điện không đúng thẩm quyền. Song trường hợp này có thể áp dụng quy định về đại diện và phạm vi đại diện để xác định hiệu lực của hợp đồng. Khi người không có quyền đại diện giao kết, thực hiện hợp đồng, sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với bên được đại diện, trừ trường hợp được người đại diện hợp pháp của bên được đại diện chấp thuận. Giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người được đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối. Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện (hoặc vượt quá phạm vi đại diện) có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch (hoặc đối với phần vượt quá phạm vi được đại diện) đã xác lập và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện và việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch
Phạm vi đại diện cần phải được xác định đối với cả đại diên theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Nếu như văn bản ủy quyền là cơ sở cho phép xác định phạm vi đại diện của người đại diện thì quy định pháp luật là cơ sở cho phép xác định phạm vi đại diện của người đai diện theo pháp luật
Tùy thuộc vào mức độ của sự vô hiệu hợp đồng, hợp đồng vô hiệu trong các trường hợp nói trên được phân chia thành: Hợp đồng vô hiệu toàn bộ và hợp đồng vô hiệu từng phần. Hợp đồng vô hiệu toàn bộ là hợp đồng mà tất cả các nội dung của hợp đồng không có giá trị pháp lý, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ và cũng không được hưởng các quyền theo hợp đồng. Hợp đồng vô hiệu từng phần là những hợp đồng có nội dung nào đó vi phạm điều cấm của pháp luật và bị vô hiệu nhưng không làm ảnh hưởng đến các nội dung còn lại của hợp đồng.
3. Điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực:
Hoạt động mua bán hàng hóa là một hoạt động trung tâm trong giao lưu thương mại, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Quan hệ mua bán hàng hóa được thể hiện dưới hình thức pháp lí nhất định là hợp đồng mua bán hàng hóa. “Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận thống nhất ý chí của các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ trả tiền và nhận hàng hóa”. Theo đó, hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm bốn đặc điểm cơ bản sau:
– Về chủ thể: hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là thương nhân.
– Về hình thức: hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được thiết lập dưới hình thức lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong những trường hợp pháp luật bắt buộc phải lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó.
– Về đối tượng: hợp đồng mua bán hàng hóa phải là hàng hóa bao gồm tất cả các loại động sản và những vật gắn liền với đất đai. Hàng hóa ở đây phải là loại hàng hóa hợp pháp, được phép kinh doanh.
– Về nôi dung: Trong quan hệ mua bán hàng hóa giữa các bên, bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận tiền; bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa và trả tiền cho bên bán. Mục đích thông thường của các bên là lợi nhuận.
Để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực thì hợp đồng đó phải đáp ứng được những điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật. Luật Thương mại không có điều khoản nào quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa. Do đó, việc xác định các điều kiện sẽ dựa trên cơ sở khái niệm, đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa cũng như các quy định của Bộ luật dân sự 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và các văn bản khác có liên quan để làm căn cứ. Điều 117 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
“Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”
Theo đó, hợp đồng mua bán hàng hóa g sẽ có hiệu lực khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, về nguyên tắc giao kết hợp đồng: Hợp đồng là sự thỏa thuận thống nhất ý chí của các bên. Các bên tự do trong việc thể hiện ý chí của mình, hướng đến lợi ích của các bên đồng thời không xâm phạm lợi ích chính đáng mà pháp luật cần bảo vệ. Việc giao kết hợp đồng nói chung và
Thứ hai, về chủ thể tham gia, giao kết hợp đồng: Chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa phải là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự để thực hiện quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng.
Ngoài ra, chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa cũng phải đúng thẩm quyền nghĩa là, chủ thể giao kết hợp đồng phải là đại diện hợp pháp của thương nhân (đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền).
Thứ ba, về đối tượng của hợp đồng: Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa. Khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại 2005 quy định hàng hóa bao gồm:
“ a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
b) Những vật gắn liền với đất đai”.
Như vậy, hàng hóa trong thương mại là đối tượng mua bán có thể là hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc có thể hình thành trong tương lai, có thể là động sản hoặc bất động sản. Tuy nhiên, những hàng hóa này phải là những hàng hóa hợp pháp và phải không thuộc những trường hợp hàng hóa bị cấm kinh doanh trong Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh được quy định cụ thể tại Phụ lục I Nghị định 59/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện. Trong trường hợp đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa đối tượng đặc biệt thuộc ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì khi tiến hành kinh doanh các ngành nghề đó đòi hỏi các chủ thể kinh doanh phải đáp ứng những điều kiện nhất định mới được phép kinh doanh.
Thứ tư, nội dung của hợp đồng: Hợp đồng mua bán hàng hóa thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mua bán, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa và trả tiền cho bên bán. Nội dung của hợp đồng bao gồm các điều khoản được ghi nhận trong hợp đồng thông thường bao gồm các điều khoản: Tên hàng, số lượng, chất lượng/phẩm chất, giá cả, phương thức thanh toán, giao hàng…. Ngoài ra, các bên còn có thể thỏa thuận về các điều khoản khác của hợp đồng. Tuy nhiên, số lượng điều khoản, loại điều khoản không phải là điều kiện để vô hiệu hợp đồng. Các điều khoản của hợp đồng phải phù hợp với pháp luật, điều khoản nào mà trái pháp luật thì điều khoản đó sẽ vô hiệu. Nói cách khác, nội dung hợp đồng không thể là điều kiện để hợp đồng vô hiệu toàn phần.
Thứ năm, hình thức của hợp đồng: Điều 24 Luật Thương mại 2005 quy định về hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa:
“ 1. Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
2. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó”.
Như vây, hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được kí kết dưới mọi hình thức, trừ những hợp đồng có quy định chuyên ngành như: hợp đồng mua bán quốc tế, hợp đồng mua bán điện,… thì bắt buộc phải bằng văn bản. Nói cách khác, điều kiện về hình thức của hợp đồng chỉ áp dụng cho một số loại hợp đồng mà pháp luật quy định cụ thể về hình thức chứ không phải áp dụng cho tất cả các hợp đồng mua bán hàng hóa.
Ngoài ra, Luật thương mại còn có một số quy định riêng về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài như chủ thể bên Việt Nam phải là thương nhân được phép hoạt động thương mại trực tiếp với người nước ngoài; hàng hóa phải là hàng hóa được phép mua bán theo quy định của pháp luật nước bên mua và nước bên bán; hoạt động mua bán phải được lập thành văn bản…
4. Những điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực:
Tóm tắt câu hỏi:
Tháng 01/2012, giám đốc công ty cổ phần A ký hợp đồng mua 1000 tấn gạo (giá: 10.000 đồng/kg) với giám đốc công ty cổ phần B. Đến thời hạn giao hàng, công ty B không giao được hàng cho công ty A. Do đó, công ty A không thực hiện được hợp đồng với đối tác và bị đối tác phạt vi phạm 200 triệu đồng. Công ty A gửi thông báo yêu cầu công ty B bồi thường thiệt hại 500 triệu đồng và chịu phạt 8% giá trị hợp đồng nhưng công ty B không chấp thuận. Công ty A quyết định khởi kiện ra Tòa án. 1. Phân tích các điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực. 2. Biết: Trong hợp đồng các bên có thỏa thuận trọng tài như sau: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này được giải quyết bởi trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.” Hãy nhận xét về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo nói trên và bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. 3. Tòa án có thể thụ lý đơn khởi kiện của công ty A không? Vì sao? 4. Phân tích các căn cứ pháp lý để xác định tính hợp pháp của yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A. Nếu yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A là hợp pháp, hãy xác định giá trị bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm mà công ty B phải chịu?
Luật sư tư vấn:
Các điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực:
– Điều kiện về chủ thể: đói với các chủ thể là cá nhân tham gia mua bán hàng hóa cần phải có năng lực pháp luật dân sự, chủ thể là thương nhân thì cần phải có năng lực pháp luật thương mại
– Điều kiện về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa: đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa phải là những hàng hóa thuộc đối tượng được pháp luật cho phép lưu thông tự do trên thị trường, nếu hàng hóa thuộc danh mục hạn chế lưu thông hay có điều kiện kèm theo thì phải đáp ứng điều kiện đó, những hàng hóa thuộc danh mục cấm lưu thông trên thị trường thì không thuộc đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa.
– Điều kiện về hình thức: hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể lập bằng miệng, bằng hành động hoặc lập thành văn bản tùy theo nhu cầu của các chủ thể. Tuy nhiên có những đối tượng pháp luật buộc phải lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực thì phải thực hiện đúng theo quy định đó, nếu sai về hình thức hợp đồng có thể bị tuyên vô hiệu.
– Điều kiện về nội dung: bất cứ một loại hợp đồng mua bán hàng hóa nào thì buộc phải có hai yếu tố đó là đối tượng mua bán và giá cả, nếu không có hai yếu tố này sẽ không được coi là hợp đồng mua bán mà có thể là các loại hợp đồng khác.
Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo
– Theo Điều 19 Luật trọng tài thương mại 2010 quy định về tính độc lập của thỏa thuận trọng tài: “thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thỏa thuận trọng tài”
Vậy hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo ở đây luôn luôn độc lập với hợp đồng, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài sẽ không bị ảnh hưởng bởi bất kì yếu tố nào từ hợp đồng chính.
Tòa án không thể thụ lý đơn khởi kiện của công ty A
– Theo quy định tại Điều 6 Luật trọng tài thương mại 2010 quy định về việc Tòa án từ chối thụ lý trong trường hợp có thỏa thuận trọng tài: “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được”.
Trong trường hợp khi hợp đồng đã có quy định giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì Tòa án phải tôn trọng điều đó, tiến hành từ chối thụ lý vụ việc. Điều này một phấn khẳng định thẩm quyền của cơ quan trọng tài, mặt khác cũng tôn trong thỏa thuận giữa các chủ thể tham gia kí kết hợp đồng mua bán.
4. Phạt vi phạm
– Căn cứ Điều 301, 302 Luật thương mại 2005:
“Điều 301. Mức phạt vi phạm
Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này.
Điều 302. Bồi thường thiệt hại
1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.
2. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”
Như vậy, có thể thấy yêu cầu phạt vi phạm của công ty A đối với công ty B 8% giá trị của hợp đồng là hoàn toàn đúng đắn. Còn viêc yêu cầu bồi thường thiệt hại sẽ căn cứ vào thiệt hại thực tế tức là hoản phạt 200 triệu của công ty đối tác với công ty A công thêm khoản lợi nhuận nếu công ty A thực hiện xong hợp đồng với đối tác sẽ là khoản tiền mà công ty B phải bồi thường cho công ty A.