Tập quán pháp là gì? Tập quán điều chỉnh một số quan hệ nhân thân? Áp dụng tập quán trong một số vấn đề liên quan đến giao dịch dân sự? Tập quán trong việc xác định quyền sở hữu, quyền định đoạt tài sản? Áp dụng tập quán trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và thừa kế? Điều kiện áp dụng tập quán pháp trong Luật dân sự Việt Nam?
Hiện nay ở Việt Nam, việc Nhà nước coi tập quán pháp như nguồn bổ trợ của pháp luật đã trở nên hết sức rõ ràng và cần thiết. Tuy nhiên, dù có cơ sở pháp lý cụ thể, song các quy định pháp luật đó khả thi hay không lại là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu. Trong nhiều trường hợp dân sự không thể xác định được tính đúng sai của sự việc bằng pháp luật mà còn phải được xác định bằng tập quán pháp. Chính vì vậy, Điều kiện áp dụng tập quán pháp trong Luật dân sự Việt Nam được quy định như thế nào?
Luật sư tư vấn pháp luật dân sự qua tổng đài:1900.6568
Cơ sở pháp lý:
1. Tập quán pháp là gì?
Tập quán pháp ở đây được hiểu là tập quán của một số địa phương trên nước ta được pháp luật thừa nhận có giá trị pháp lý, trở thành những quy tắc xử sự chung và được Nhà nước bảo đảm việc thực hiện. Tập quán pháp được xem như một nguồn bổ trợ, nhất là khi nhiều quan hệ xã hội chưa được điều chỉnh bởi văn bản pháp luật.
Trong Bộ luật Dân sự 2015, Nhà nước ta đã chính thức thừa nhận một số tập quán. Việc thừa nhận này trước hết thông qua một quy định mang tính nguyên tắc thể hiện tại Điều 5: “Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định”
Thứ tự ưu tiên và điều kiện để áp dụng tập quán pháp: đầu tiên là việc thực hiện tập quán khi giữa các bên không có thỏa thuận tiếp theo đó vệ việc này không có pháp luật điều chỉnh trực tiếp, có tập quán áp dụng và điều cuối cùng thì tập quán không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
2. Tập quán điều chỉnh một số quan hệ nhân thân?
-Đối với quyền có họ, tên: trong số những quyền nhân thân được Bộ luật Dân sự 2015 ghi nhận, bảo vệ thì quyền xác định dân tộc là quyền có sự tham gia điều chỉnh của tập quán pháp. Theo khoản 2 Điều 26 Bộ luật Dân sự 2015 thì Họ của cá nhân khi được sinh ra thì được xác định theo họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nhưng nếu trong trường hợp cha mẹ đẻ không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán. Trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của mẹ đẻ là người đẻ ra cá nhân đó.” Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến việc xác định họ cho cá nhân khi có yêu cầu, bảo đảm thực hiện tốt hơn các quyền dân sự của cá nhân cụ thể trong trường hợp này – quyền họ, tên.
-Quyền xác định, xác định lại dân tộc:
Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Dân sự 2015 quy định thi Cá nhân khi sinh ra được pháp luật xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ; trường hợp giữ cha mẹ đẻ không có thỏa thuận được về dân tộc của con thì dân tộc của con được xác định theo tập quán; trường hợp tập quán của ha mẹ đẻ thuộc hai địa phương khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo tập quán của dân tộc ít người hơn.
Quy định này không chỉ rõ thứ tự ưu tiên xác định dân tộc theo tập quan trước hay theo thỏa thuận trước dẫn đến có những trường hợp tranh chấp xảy ra rất khó giải quyết.
3. Áp dụng tập quán trong một số vấn đề liên quan đến giao dịch dân sự?
Giải thích giao dịch dân sự (bao gồm cả hợp đồng dân sự) theo Điều 121:
“Giao dịch dân sự có nội dung không rõ ràng, khó hiểu, được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và không thuộc quy định tại khoản 2 Điều này thì việc giải thích giao dịch dân sự đó được thực hiện theo thứ tự sau đây:
a) Theo ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch;
b) Theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch;
c) Theo tập quán nơi giao dịch được xác lập”
Như vậy, tập quán nơi giao dịch được xác lập nếu được lựa chọn để giải thích giao dịch dân sự thì đó chính là tập quán pháp
Tập quán còn được sử dụng để xác định nghĩa vụ bảo đảm giá trị sử dụng tài sản thuê trong giao dịch thuê tài sản. “Bên cho thuê phải bảo đảm tài sản thuê trong tình trạng như đã thỏa thuận, phù hợp với mục đích thuê trong suốt thời gian cho thuê; phải sửa chữa những hư hỏng, khuyết tật của tài sản thuê, trừ hư hỏng nhỏ mà theo tập quán bên thuê phải tự sửa chữa”.
4. Tập quán trong việc xác định quyền sở hữu, quyền định đoạt tài sản?
Tập quán pháp còn được sử dụng để xác định quyền sở hữu chung, hình thành quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung của cộng đồng. Việc xác lập quyền sở hữu chung có thể được thực hiện theo thỏa thuận của các chủ sở hữu, theo quy định của pháp luật và cũng có thể được hình thành theo tập quán (Điều 208 Bộ luật Dân sự 2015).
Việc quy định về áp dụng tập quán trong việc xác định nghĩa vụ của người hưởng dụng tài sản là quy định mới phù hợp và tương thích với việc ghi nhận thêm một quyền khác đối với tài snar đó là quyền hưởng dụng tài sản.
5. Áp dụng tập quán trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và thừa kế
Quy định về áp dụng tập quán trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trong việc thanh toán và phân chia di sản thừa kế vấn được Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó, khoản 4 Điều 603 quy định về bồi thường do súc vật gây ra có quy định: “Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Liên quan đến vấn đề thừa kế, Điều 658 quy định thứ tự ưu tiên thanh toán nghĩa vụ và các khoản chi phí, tại khoản 1 quy định chi phí đầu tiên được ưu tiên thanh toán chính là chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.
6. Điều kiện áp dụng tập quán pháp trong Luật dân sự Việt Nam
Việc áp dụng tập quán pháp phải có các điều kiện sau đây:
– Quan hệ đang tranh chấp thuộc lĩnh vực Luật dân sự điều chỉnh. Có nghĩa là quan hệ đang xảy ra tranh chấp phải thuộc nhóm quan hệ về nhân thân và tài sản trong quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, lao động, thương mại. (Điều 1
– Trong pháp luật dân sự chưa có quy phạm trực tiếp điều chỉnh. Quan hệ đang cần giải quyết chưa được các nhà lập pháp dự liệu trước và do đó sẽ không có quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh quan hệ đó
– Với các quy phạm và chế định hiện có không thể giải quyết được tranh chấp đó. Tức là với những quy phạm và chế định trong Bộ luật dân sự năm 2015 không thể giải quyết được quan hệ đang xảy ra tranh chấp
– Có tập quán được cộng đồng thừa nhận như chuẩn mực ứng xử trong các trường hợp đó. Do các phong tục tập quán rất phong phú đa dạng và có sự khác biệt giữa các vùng miền, dòng họ, gia đình, dân tộc; nên khi áp dụng tập quán thì phải áp dụng những tập quán được đông đảo mọi người trong cộng đồng và khu vực thừa nhận. Không được phép áp dụng tập quán của địa phương này cho địa phương khác hay của dòng họ, gia đình này cho dòng họ và gia đình khác.
Việc áp dụng tập quán là một cách rất hữu hiệu để khắc phục những lỗ hổng trong pháp luật dân sự nói riêng và trong toàn bộ nền pháp luật Việt Nam nói chung. Nếu tập quán phản ánh đúng ý chí của Nhà nước thì nên vận dụng để giải quyết tranh chấp. Ví dụ như tập quán của người Mường, Thái, Thổ , khi vợ chồng mâu thuẫn với nhau, vai trò của đại diện 2 họ lúc cưới xin rất quan trọng trong việc hòa giải, nếu hai vợ chồng có ý định ly hôn thì những người đại diện cho họ vợ và họ chồng tìm mọi cách để hòa giải để hai vợ chồng đoàn tụ với nhau. Đây là một tập quán tốt cần được áp dụng nhiều cho các án kiện ly hôn của những cặp vợ chồng thuộc những tộc người này.
Tuy nhiên cũng cần xem xét để hủy bỏ những tập quán đã không còn phù hợp, chung ta cần xem xét nhiều và phát triển tích cực các tập quán tốt, phù hợp với xã hội. Đồng thời có những biện pháp mạnh mẽ hơn để xóa bỏ các tập quán lạc hậu không phù hợp.
Trong trường hợp, tập quán pháp trong đó có tình tiết hai bên tranh chấp thuộc hai địa phương khác nhau đều có tập quán để áp dụng thì tập quán trong trường hợp này được áp dụng như sau:
Ví dụ trường hợp trâu bò thả rông thuộc sở hữu của ai?
Ở khu vực miền núi phía bắc của nước ta thì việc chăn nuôi trâu bì thường được người dân ở đây thả rông để nó tự đi kiếm thức ăn. Người thấy được trâu bò thả rông sau một thời gian không phải là người được xác lập quyền sở hữu đối với trâu bò này mà người sở hữu thực sự của nó phải là người đã thả rông nó vì tập quán những nơi này là thả rông trâu bò, việc áp dụng những tập quán này hoàn toàn phù hợp với điều kiên, địa hình, thổ nhưỡng và khí hậu của vùng núi mùa khô lạnh khi người dân không đáp ứng đủ về như cầu thức ăn cho trâu bò thì thả rông cho trâu bò tự tìm thức ăn là một điều rất hợp lý, khi mùa lạnh kết thức có thức ăn trở lại thì trâu bò về lại chuồng trại ban đầu của nó. Ở địa phương khác, việc xác định chủ sở hữu đối với trâu bò được xác định sở hữu cho người bắt được trâu bò trong một thời hạn nhất định. Như vậy, ở hai địa phương khác nhau, việc xác định chủ sở hữu đối với trâu, bò thả rông bị lạc áp dụng tập quán khác nhau. Do đó, khi phát sinh tranh chấp việc lựa chọn tập quán ở địa phương nào áp dụng để giải quyết tranh chấp còn nhiều vướng mắc.
– Có tập quán được cộng đồng thừa nhận như chuẩn mực ứng xử trong các trường hợp đó. Do các phong tục tập quán rất phong phú đa dạng và có sự khác biệt giữa các vùng miền, dòng họ, gia đình, dân tộc; nên khi áp dụng tập quán thì phải áp dụng những tập quán được đông đảo mọi người trong cộng đồng và khu vực thừa nhận. Không được phép áp dụng tập quán của địa phương này cho địa phương khác hay của dòng họ, gia đình này cho dòng họ và gia đình khác.