Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không là tên gọi của chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Chiến tranh Việt Nam. Vậy diễn biến và kết quả của chiến dịch này ra sao? Hãy tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không là gì?
Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không là tên gọi của chiến dịch ném bom của Không lực Hoa Kỳ nhằm ép buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký kết hiệp định Paris vào tháng 12 năm 1972. Nguyên nhân ra đời trận Điện Biên Phủ trên không là do Hoa Kỳ muốn ép buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải chấp nhận các điều khoản bất lợi trong Hiệp định Paris, sau khi đàm phán bị đình trệ vào tháng 10 năm 1972. Chiến dịch này kéo dài từ ngày 18 đến ngày 30 tháng 12, trong đó Hoa Kỳ sử dụng máy bay ném bom chiến lược B-52 để tấn công các mục tiêu quan trọng ở miền Bắc Việt Nam, như Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Bắc Giang. Chiến dịch này được coi là sự nối tiếp của chiến dịch Linebacker I diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1972.
2. Quá trình chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không:
Quá trình chuẩn bị của quân dân Việt Nam trong trận Điện Biên Phủ trên không là một minh chứng cho bản lĩnh, sáng tạo và quyết tâm của dân tộc. Trước khi chiến dịch Linebacker II của Mỹ bắt đầu vào ngày 18 tháng 12 năm 1972, quân dân ta đã phát hiện âm mưu của địch và tiến hành nâng cao năng lực phòng không, củng cố hệ thống chỉ huy, tăng cường liên lạc, huấn luyện và tinh thần chiến đấu.
Trong chiến dịch, quân dân ta đã phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng phòng không – không quân, quân chủng khác, dân quân tự vệ và nhân dân. Quân dân ta đã sử dụng linh hoạt các biện pháp chiến đấu như đánh úp, đánh phối hợp, đánh liên tiếp, đánh chia lửa, đánh kéo dài… để gây bất ngờ và áp lực cho kẻ thù, cũng như đã khai thác tối đa các điều kiện thuận lợi của địa hình, khí hậu và thời tiết để tạo ra những điểm mạnh trong phòng không.
Quá trình chuẩn bị của quân dân Việt Nam trong trận Điện Biên Phủ trên không đã góp phần quan trọng vào thắng lợi lịch sử của chiến dịch, buộc Mỹ phải ngừng bắn và ký Hiệp định Paris, mở ra cơ hội cho việc giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước.
Chủ trương của Việt Nam trong trận Điện Biên Phủ trên không là đánh bại âm mưu của Mỹ nhằm ép ta phải nhân nhượng theo những điều kiện có lợi cho Mỹ trong cuộc đàm phán Paris. Việt Nam đã sử dụng sức mạnh của chiến tranh nhân dân, nghệ thuật quân sự và tinh thần quyết chiến để chống lại cuộc tấn công bằng máy bay ném bom chiến lược B-52 của Mỹ vào các trung tâm đầu não của miền Bắc.
3. Diễn biến Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không 1972:
Các trận đánh tiêu biểu của trận Điện Biên Phủ trên không là những cuộc không kích của máy bay ném bom chiến lược B-52 của Hoa Kỳ nhằm vào các mục tiêu quân sự và dân sự ở miền Bắc Việt Nam từ ngày 18 đến 30 tháng 12 năm 1972.
Trong 11 ngày chiến dịch, Hoa Kỳ đã huy động khoảng 200 máy bay B-52 và hơn 1.000 máy bay chiến thuật để thực hiện hơn 700 cuộc không kích, ném xuống miền Bắc Việt Nam khoảng 20.000 tấn bom. Các mục tiêu chính bao gồm các cơ sở quân sự, các nhà máy, các cầu, các kho hàng và các khu dân cư ở Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Bắc Giang. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh, máy bay ném bom B-52 được sử dụng để tấn công các mục tiêu trong khu vực phòng không dày đặc và hiện đại của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Tuy nhiên, chiến dịch này đã gặp phải sự kháng cự quyết liệt của quân và dân miền Bắc. Bằng sự chuẩn bị kỹ lưỡng và quyết tâm chiến đấu cao độ của Quân chủng Phòng không – Không quân và toàn dân, với sự chỉ huy của Thượng tướng Văn Tiến Dũng, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã triển khai lực lượng phòng không và không quân để chống lại cuộc tấn công của Hoa Kỳ. Ta đã sử dụng các tiểu đoàn tên lửa SA-2, các loại pháo khác nhau, các máy bay tiêm kích MiG-17, MiG-19 và MiG-21, cùng với sự hỗ trợ của các tình nguyện viên Trung Quốc và Đông Đức. Bên cạnh đó, bên ta cũng đã tổ chức các cuộc biểu tình chống chiến tranh và kháng chiến của nhân dân trên các thành phố và thôn làng.
4. Kết quả Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không 1972:
Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không bị Quân đội Nhân dân Việt Nam chặn đứng bằng hệ thống phòng không mật đặc, bao gồm tên lửa SA-2, pháo phòng không và máy bay tiêm kích MiG. Theo số liệu của Hoa Kỳ, họ đã mất tổng cộng 28 máy bay bị bắn rơi, trong đó có 16 B-52, và có 43 phi công thiệt mạng hoặc mất tích, 49 phi công bị bắt làm tù binh. Theo số liệu của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, quân và dân miền Bắc Việt Nam đã bắn rơi tổng cộng 81 máy bay của Hoa Kỳ, trong đó có 34 chiếc B-52. Trong khi đó, Hoa Kỳ chỉ bắn rơi được 3 chiếc MiG-21 của Việt Nam. Chiến dịch này cũng gây ra nhiều thiệt hại cho người dân vô tội, với hơn 2.300 người thiệt mạng và hơn 1.300 người bị thương.
Như vây, cuộc tấn công không kích của Hoa Kỳ đã bị đánh bại và buộc phải ngừng bom. Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không không đạt được mục tiêu của Hoa Kỳ, mà còn làm gia tăng sức ép quốc tế và trong nước đối với chính quyền Nixon. Cuối cùng, Hoa Kỳ phải chấp nhận ký kết Hiệp định Paris vào ngày 27 tháng 1 năm 1973 với nội dung tương tự như bản dự thảo vào tháng 10 năm 1972 mà họ đã từ chối, cam kết rút toàn bộ quân sự khỏi miền Nam Việt Nam và tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Có thể nói, chiến dịch Điện Biên Phủ trên không được coi là một thất bại chiến lược của Hoa Kỳ và một chiến thắng lịch sử của Việt Nam.
Trận Điện Biên Phủ trên không 1972 đã khẳng định sức mạnh và ý chí chiến đấu của quân và dân Việt Nam, là một đỉnh cao chiến thắng của văn hóa quân sự Việt Nam.
5. Ý nghĩa Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không:
Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không được coi là một thất bại chiến lược của Hoa Kỳ vì nó không thể buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chấp nhận các điều kiện của Hoa Kỳ trong hiệp định hòa bình. Ngược lại, nó đã gây ra sự phẫn nộ của quốc tế đối với cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ và tăng cường ý chí kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Sau khi chiến dịch kết thúc, hai bên đã trở lại bàn đàm phán và ký kết Hiệp định Paris vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, theo đó Hoa Kỳ cam kết rút quân khỏi Việt Nam và tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và độc lập của Việt Nam.
Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không 1972 đã khẳng định sức mạnh chính trị, tinh thần và ý chí của toàn dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đây là chiến thắng của đường lối chiến tranh nhân dân, của lòng dũng cảm và trí thông minh của dân tộc ta chống lại cuộc tập kích đường không quy mô lớn của đế quốc Mỹ với vũ khí trang bị hiện đại. Chiến thắng này đã buộc Mỹ phải ngừng hoạt động chống phá miền Bắc và ký kết Hiệp định Paris vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, mở ra bước ngoặt mới cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của nhân dân ta.
Không chỉ vậy, chiến dịch Điện Biên Phủ trên không được coi là một đỉnh cao chiến thắng của văn hóa quân sự Việt Nam hiện đại, là sự kế thừa và phát triển truyền thống nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh lịch sử. Trận Điện Biên Phủ trên không 1972 đã khẳng định chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là chiến thắng của sức mạnh chính trị, tinh thần của toàn dân tộc Việt Nam, là ý chí, quyết tâm dám đánh, biết đánh và quyết thắng giặc Mỹ xâm lược. Chiến dịch này cũng có ý nghĩa quan trọng đối với phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH của nhân dân thế giới; là đòn đánh lịch sử, mở đường cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân mới ở Việt Nam; góp phần làm tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của phong trào cách mạng thế giới vào chủ nghĩa đế quốc; đem lại lòng tin cho hàng trăm triệu người trên trái đất đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đó là một chiến thắng có tầm ảnh hưởng toàn cầu. Nó đã làm nức lòng bè bạn và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, đẩy lùi “tâm lí sợ hãi” về cái gọi là “sức mạnh khủng khiếp của không quân chiến lược Mỹ”. Nó đã viết tiếp trang sử vàng chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX.