Đối tượng lao động là gì? Tư liệu lao động là gì? Điểm khác biệt giữa đối tượng lao động và tư liệu lao động?
Các ngành hoặc quy trình sử dụng nhiều lao động đòi hỏi lượng lớn nỗ lực thể chất để hoàn thành các công việc cần thiết. Trong các ngành sử dụng nhiều lao động, chi phí liên quan đến việc đảm bảo nhân sự cần thiết lớn hơn chi phí vốn về tầm quan trọng và khối lượng. Trong khi nhiều công việc sử dụng nhiều lao động đòi hỏi trình độ kỹ năng hoặc trình độ học vấn thấp, thì điều này không đúng với tất cả các vị trí sử dụng nhiều lao động. Vậy giữa đối tượng lao động và tư liệu lao động có những điểm khác nhau như thế nào? Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, bài viết dưới đây của Luật Dương Gia sẽ cung cấp cho bạn đọc nội dung liên quan đến: ” Điểm khác biệt giữa đối tượng lao động và tư liệu lao động”
Luật sư tư vấn pháp luật miễn phí qua điện thoại 24/7: 1900.6568
Điểm khác biệt giữa đối tượng lao động và tư liệu lao động?
1. Đối tượng lao động là gì?
– Quan hệ lao động – đối tượng điều chỉnh của luật lao động Việt Nam:
Việt Nam mới chuyển sang định hướng phát triển kinh tế thị trường vào cuối những năm 80 của thế kỉ XX. Sau thời gian khuyến khích phát triển quan hệ lao động hợp đồng, Bộ luật lao động được ban hành năm 1994 đáp ứng được những đòi hỏi cơ bản của vấn đề lao động, sử dụng và quản lí lao động trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên, trong khoa học, việc xác định phạm vi đối tượng điều chỉnh của luật lao động còn là vấn đề chưa thật thống nhất.
– Tất cả các chế định của luật lao động và các văn bản hiện hành liên quan đến Bộ luật lao động cũng đều tập trung quy định chế độ tuyển dụng lao động, điều kiện lao động và điều kiện sử dụng lao động, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động làm công ăn lương nói trên. Như vậy, luật lao động Việt Nam cũng thể hiện sự xác định đối tượng điều chỉnh theo thông lệ chung. Vì thế, đặc điểm cơ bản có tính quyết định để nhận diện đối tượng điều chỉnh của luật lao động Việt Nam cũng là tư cách tham gia quan hệ của các chủ thể và sự phụ thuộc của người lao động trong quan hệ lao động. Về mặt hình thức, các quan hệ lao động này đều phát sinh trên cơ sở hợp đồng lao động.
2. Tư liệu lao động là gì?
– Phương tiện lao động (còn gọi là công cụ lao động ) là một khái niệm trong kinh tế chính trị học mácxít dùng để chỉ “tất cả những thứ đó với sự trợ giúp của con người và biến đổi đối tượng lao động của mình.” (Viện Kinh tế của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô , 1957) Phương tiện lao động bao gồm công cụ và máy móc (“công cụ sản xuất”), cũng như các tòa nhà và đất đai được sử dụng cho mục đích sản xuất và cơ sở hạ tầng như đường xá và mạng lưới thông tin liên lạc , v.v. ra ngoài. Nhân công, Bản thân nó định nghĩa “làm việc, đặc biệt là công việc thể chất chăm chỉ.”
3. Điểm khác biệt giữa đối tượng lao động và tư liệu lao động?
– Trước cuộc cách mạng công nghiệp, 90% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Sản xuất thực phẩm rất thâm dụng lao động. Sự phát triển công nghệ và tăng trưởng kinh tế đã làm tăng năng suất lao động, giảm cường độ lao động và tạo điều kiện cho người lao động chuyển sang lĩnh vực sản xuất và (gần đây là) dịch vụ.
– Các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, các hợp tác xã;
– Các
Xem thêm: Khác biệt giữa thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt
– Các cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức phi chính phủ hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam;
– Các gia đình, cá nhân sử dụng lao động ở Việt Nam.
– Trong đó, các quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài (bao gồm cả quan hệ lao động của người nước ngoài làm việc cho các tổ chức, cá nhân được phép sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam) còn có thể là đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Nếu có các điều ước quốc tế mà Việt Nam là một bên kí kết hoặc tham gia có quy định khác thì quan hệ lao động này sẽ do các điều ước quốc tế đó điều chỉnh. Nếu không thuộc trường hợp đó thì quan hệ lao động sẽ do luật lao động điều chỉnh.
– Đối với các quan hệ lao động nêu trên, các chủ thể của quan hệ phải tuân theo các quy định của luật lao động trong tất cả các khâu, các giai đoạn của quan hệ đó như: thiết lập quan hệ (giao kết hợp đồng lao động), thực hiện quan hệ (thực hiện, thay đổi,
– Như vậy, luật lao động hiện hành không điều chỉnh các quan hệ khác, mặc dù có yếu tố lao động, rất gần gũi với quan hệ lao động như quan hệ của các xã viên với hợp tác xã, quan hệ dịch vụ, gia công… Thực tế, những quan hệ này không phải là quan hệ lao động, không có yếu tố sử dụng lao động. Điều đó cũng phù hợp với các quy định khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay: những quan hệ này đã được Luật hợp tác xã, luật dân sự điều chỉnh.
– Quan hệ lao động của công chức, viên chức với Nhà nước cũng không nằm trong đối tượng điều chỉnh của luật lao động do những đặc thù đã phân tích ở trên. Quan hệ này đã được quy định trong luật hành chính . Các điều luật này đã có sự phân biệt mang tính chủ đạo về đối tượng lao động là viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương. Sự phân định này trong hệ thống pháp luật Việt Nam thể hiện yêu cầu khách quan của sự phù hợp giữa loại quy phạm pháp luật điều chỉnh và tính chất của quan hệ xã hội được điều chỉnh.
– Tuy nhiên, trên thực tế có những quan hệ thuê mướn thực hiện công việc nhưng không dễ để kết luận ngay rằng ở đó có sự sử dụng sức lao động như quan hệ lao động hay đó chỉ là quan hệ dịch vụ theo hình thức thuê khoán dân sự. Đặc biệt, khi các bên thiết lập quan hệ ngắn hạn theo vụ việc, chỉ thoả thuận về công việc và tiền công. Người lao động được trả công theo hình thức công nhật hoặc công khoán theo sản phẩm thực tế. Họ cũng phải tuân theo những yêu cầu nào đó nhưng công việc thuộc loại đơn giản, yếu tố tổ chức, quản lý lao động không rõ ràng…
– Những quan hệ như vậy rất khó phân biệt nên nếu có tranh chấp, các bên phải tự chứng minh quan hệ của họ có dấu hiệu của quan hệ lao động hay không. Nếu không chứng minh được có sự quản lí của một bên và có sự phục tùng của bên kia trong quá trình làm việc thì quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sẽ được giải quyết theo các quy định của luật dân sự. Nói cách khác, nếu các dấu hiệu của quan hệ lao động không rõ ràng, luật dân sự sẽ được sử dụng để điều chỉnh quan hệ đó. Tương tự như vậy, trong một vài trường hợp, sự khác nhau của quan hệ lao động hợp đồng và quan hệ lao động của công chức nhà nước cũng rất mỏng manh và mang tính hình thức.
Xem thêm: Sự khác nhau giữa giám đốc thẩm và tái thẩm trong thủ tục tố tụng dân sự
– Đó là trường hợp người lao động vào làm việc tại cơ quan nhà nước theo hình thức hợp đồng lao động với công việc và mức lương thoả thuận. Lúc này, quan hệ lao động của họ do luật lao động điều chỉnh. Sau khi có chỉ tiêu biên chế nhà nước, họ được tuyển dụng vào làm việc theo chế độ công chức nhà nước bằng quyết định hành chính, công việc và mức lương có thể chưa thay đổi; song, quan hệ lao động của họ đã thay đổi cơ bản, đã trở thành quan hệ lao động giữa công chức với Nhà nước, do luật hành chính điều chỉnh.
– Như vậy, có thể khẳng định đối tượng điều chỉnh chủ yếu của luật lao động Việt Nam là quan hệ lao động làm công ăn lương – quan hệ lao động phát sinh trên cơ sở hợp đồng lao động, giữa người lao động làm công và người sử dụng lao động. Điều đó phù hợp với xu hướng chung trên bình diện quốc tế và đảm bảo tính hài hoà trong hệ thống pháp luật hiện hành. Ngoài ra, các văn bản là nguồn chủ yếu của luật lao động cũng có thể được áp dụng với một số quan hệ phù hợp khác đồng thời là nguồn của các ngành luật đó.
* Thứ hai, về tư liệu lao động: Tư liệu lao động là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất , cùng với sức lao động của con người , và đối tượng lao động (tư liệu làm việc).
– Tư liệu lao động và chủ thể lao động làm tổn hại đến tư liệu sản xuất của xã hội.
– Trong một số công thức, phương tiện lao động và sức lao động của con người (bao gồm bản thân hoạt động, cũng như các kỹ năng và kiến thức mang lại cho quá trình sản xuất) bao gồm các lực lượng sản xuất của xã hội , các công thức khác xác định lực lượng sản xuất nhiều hơn trong phạm vi hẹp là sự kết hợp giữa các công cụ sản xuất và những người lao động sử dụng chúng.
– Nhìn chung, các nền kinh tế kém phát triển có xu hướng sử dụng nhiều lao động hơn. Tình trạng này khá phổ biến vì thu nhập thấp có nghĩa là nền kinh tế hoặc doanh nghiệp không có khả năng đầu tư vào vốn đắt đỏ. Nhưng với thu nhập thấp và lương thấp, một doanh nghiệp có thể duy trì khả năng cạnh tranh bằng cách sử dụng nhiều lao động. Bằng cách này, các doanh nghiệp trở nên ít thâm dụng lao động hơn và thâm dụng vốn nhiều hơn.
Xem thêm: Sự khác biệt giữa cấu trúc nguồn luật trong dòng họ Civil Law và Common Law