Tình hình Nhật Bản và Việt Nam giữa thế kỉ XIX có điểm chung là chế độ phong kiến đang khủng hoảng sâu sắc. Tại Nhật Bản giữa thế kỉ XIX, chế độ Mạc Phủ lâm vào tình trạng khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng. Còn ở Việt Nam giữa thế kỉ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng, nông nghiệp sa sút, công thương nghiệp đình đốn, chính sách đối ngoại có nhiều sai lầm.
Mục lục bài viết
1. Điểm giống nhau về tình hình Việt Nam và Nhật Bản giữa thế kỷ 19 là?
Điểm giống nhau về tình hình Việt Nam và Nhật Bản giữa thế kỉ XIX là
A. chế độ phong kiến lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc.
B. bị các nước đế quốc xâu xé, bóc lột và thống trị tàn bạo.
C. mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển nhanh chóng.
D. chế độ phong kiến ổn định và đang phát triển mạnh mẽ.
Đáp án: A
Tình hình Việt Nam và Nhật Bản giữa thế kỉ XIX:
Giống:
– Đều là quốc gia phong kiến. Chế độ quân chủ chuyên chế lâm vào tình trạng khủng hoảng.
– Đều đứng trước nguy cơ trở thành thuộc địa của thực dân phương Tây. (Nhật Bản là Mĩ, Việt Nam là Pháp).
– Về kinh tế: nông nghiệp vẫn dựa trên quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu. Địa chủ bóc lột nhân dân lao động rất nặng nề. Tình trạng mất mùa đói kém liên tiếp xảy ra.
* Khác:
– Về kinh tế:
+ Nhật Bản: kinh tế hàng hoá phát triển, công trường thủ công xuất hiện ngày càng nhiều. Những mầm mống kinh tế tư sản chủ nghĩa phát triển nhanh chóng.
+ Việt Nam: kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo, nền kinh tế TBCN chưa phát triển.
– Về xã hội:
+ Nhật Bản: Tầng lớp tư sản công thương nghiệp xuất hiện và ngày càng giàu có.
+ Việt Nam: chưa phát triển kinh tế TBCN nên chưa xuất hiện tầng lớp tư sản.
– Cách giải quyết khủng hoảng và kết quả:
+ Nhật Bản: tiến hành cải cách Minh Trị trên tất cả các lĩnh vực, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và phát triển theo con đường TBCN.
+ Việt Nam: không tiến hành cải cách, đất nước rơi vào vòng lệ thuộc thực dân Pháp. => Nhờ cuộc duy tân Minh Trị, Nhật Bản trở thành cường quốc hàng đầu châu Á
2. Tình hình Nhật Bản giữa thế kỉ XIX:
Đến giữa thế kỉ XIX, sau hơn 200 năm thống trị thì chế độ Mạc phủ Tô-ku-ga-oa ở Nhật Bản, đứng đầu là Sôgun (Tướng quân) đã lâm vào tình trạng khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng. Đây là thời kì suy yếu của xã hội phong kiến Nhật Bản chứa đựng nhiều mâu thuẫn ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội.
– Về kinh tế, hệ thống nông nghiệp vẫn hoạt động dựa trên cơ cấu sản xuất truyền thống, với sự thống trị của địa chủ gây ra sự bóc lột nặng nề đối với nông dân. Mức thu nhập trung bình của họ bị hút hết đến 50% bởi địa chủ. Tình trạng mất mùa và đói kém liên tục diễn ra. Trong khi đó, tại các đô thị và cảng biển, kinh tế hàng hóa đang phát triển mạnh mẽ, và các nhà máy và xưởng thủ công đang mọc lên ngày càng nhiều. Có sự nhanh chóng phát triển của các yếu tố kinh tế tư bản chủ nghĩa.
– Về xã hội, Chính quyền Sôgun vẫn duy trì hệ thống tầng lớp đẳng cấp. Các Đaimyo, là những quý tộc phong kiến quan trọng, tiếp tục kiểm soát các vùng lãnh thổ trong nước và sở hữu quyền lực tuyệt đối tại các lãnh thổ của họ. Tầng lớp Samurai, phục vụ dưới các Đaimyo, là những người không có ruộng đất và thường chỉ được thưởng lương bổng thông qua việc huấn luyện và lãnh đạo các đội quân vũ trang. Do thiếu chiến tranh trong một khoảng thời gian dài, vị thế của Samurai đã suy giảm, lương bổng không ổn định, cuộc sống khó khăn hơn, dẫn đến nhiều người rời bỏ lãnh thổ và tham gia vào hoạt động thương nghiệp hoặc mở các xưởng thủ công. Dần dần, họ trở thành nhóm tư sản, tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại hệ thống phong kiến lỗi thời.
– Tầng lớp tư sản công thương nghiệp ngày càng giàu có, song các nhà tư sản công thương lại không có quyền lực về chính trị. Nông dân là đối tượng bóc lột chủ yếu của giai cấp phong kiến, còn thị dân thì không chỉ bị phong kiến khống chế mà còn bị các nhà buôn và những người cho vay lãi bóc lột.
– Về mặt chính trị, đến giữa thế kỷ XIX, Nhật Bản vẫn duy trì một chế độ phong kiến. Thiên hoàng có vị trí cao nhưng thực quyền nằm trong tay Sôgun của dòng họ Tô-ku-ga-oa tại phủ Chúa (Mạc phủ). Cuộc cách mạng Meiji bắt đầu vào năm 1868, đánh dấu sự kết thúc của chế độ Tokugawa và mở ra một giai đoạn đổi mới toàn diện cho Nhật Bản. Quốc gia này tiến hành hàng loạt cải cách nhằm phá vỡ hệ thống phong kiến truyền thống và thúc đẩy sự phát triển công nghiệp cũng như quân đội. Các biện pháp cải cách bao gồm việc loại bỏ chế độ daimyo (chủ lãnh thổ) và samurai, thiết lập một chính phủ trung ương mạnh mẽ và mở cửa với thế giới bên ngoài.
– Trong bối cảnh mâu thuẫn giai cấp nội bộ trở nên ác liệt và chế độ Mạc phủ gặp khủng hoảng nghiêm trọng, các quốc gia tư bản phương Tây, đặc biệt là Mỹ, áp đặt áp lực quân sự để ép Nhật Bản “mở cửa”.
– Năm 1854, Mạc phủ buộc phải ký hiệp ước với Mỹ, mở hai cửa biển Si-mô-đa và Ha-kô-đa-tê cho người Mỹ tham gia hoạt động buôn bán. Các quốc gia Anh, Pháp, Nga và Đức sau đó cũng áp đặt Nhật Bản kí kết các hiệp ước không công bằng với những điều kiện nặng nề.
– Trong thế kỷ XIX, Nhật Bản đã tiến hành nhiều cuộc xâm lược và chiếm đóng các khu vực như Đài Loan, Hàn Quốc, và cuối cùng là xâm chiếm lãnh thổ của Trung Quốc và Đông Nam Á, dẫn đến sự nổi dậy của mình trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất và Thế chiến thứ hai.
– Như vậy, đến giữa thế kỉ XIX, Nhật Bản đã lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng, đứng trước sự lựa chọn: hoặc tiếp tục duy trì chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ để bị các nước đế quốc xâu xé hoặc tiến hành duy tân, đưa Nhật Bản phát triển theo con đường của các nước tư bản phương Tây.
3. Tình hình Việt Nam giữa thế kỉ XIX:
Giữa thế kỉ XIX, nền kinh tế – xã hội Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng: bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương mục ruỗng, nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp sa sút, tài chính khô kiệt, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt làm cho xã hội thêm rối loạn.
– Về xã hội:
Từ giữa thế kỉ XIX, trong khi thực dân Pháp đang ráo riết mở rộng việc xâm chiếm nước ta thì nhà Nguyễn vẫn thi hành những chính sách đối nội, đối ngoại lỗi thời, lạc hậu. Nền chính trị xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng ngày càng nghiêm trọng.
Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng. Sự thiếu thốn và bất công trong phân phối tài nguyên, cũng như sự lạc hậu trong cơ cấu xã hội, tạo ra những mâu thuẫn sâu sắc, đặc biệt là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp.
Sự khốn khổ và bất bình của nhân dân đã dẫn đến sự phản kháng mạnh mẽ. Các cuộc khởi nghĩa, như những cuộc khởi nghĩa của Cao Bá Quát, Lê Duy Lương, Lê Văn Khôi, Nông Văn Vân, là biểu hiện rõ ràng nhất cho sự bất mãn và mong muốn thay đổi của nhân dân.
– Về kinh tế:
Vào giữa thế kỉ XIX, trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, đạt được những tiến bộ nhất định về kinh tế, văn hóa. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, chế độ phong kiến Việt Nam đang có những biểu hiện khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng.
Nông nghiệp sa sút. Nhiều cuộc khai hoá khẩn hoang được tổ chức và làm khá quy mô, nhưng cuối cùng đất đai mới khai khẩn bị lại rơi vào tay địa chủ, cường hào. Hiện tượng dân lưu tán di cư khắp nơi trở nên phổ biến. Đê điều không được chăm sóc. Nạn mất mùa, đói kém xảy ra liên miên.
Công thương nghiệp bị đình chệ; xu hướng độc quyền công thương của Nhà nước đã hạn chế sự phát triển của sản xuất và thương mại. Chính sách “bế quan tỏa cảng” của nhà Nguyễn khuyến khích cho nước ta bị cô lập với thế giới bên ngoài.
Quân sự lạc hậu, chính sách đối ngoại có những sai lầm, nhất là việc “cấm đạo”, đuổi giáo sĩ phương Tây, đã gây ra những mâu thuẫn, làm rạn nứt khối đoàn kết dân tộc, gây bất lợi cho sự nghiệp kháng chiến sau này.
THAM KHẢO THÊM: