Đền Kim Liên là một trong những đền thờ nổi tiếng ở Hà Nội, là địa điểm lý tưởng để chúng ta cùng bạn bè, gia đình đến tham quan, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu những tri thức về đền Kim Liên qua bài viết dưới đây!
Mục lục bài viết
1. Đền Kim Liên ở đâu?
Đền Kim Liên hay còn gọi là đền Cao Sơn, đền Kim Liên xưa thuộc phường Kim Hoa, sau thuộc phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, nay là phường Phương Liên, quận Đống Đa Thành phố Hà Nội. Đền thờ thần Cao Sơn.
Đền Kim Liên là trấn phía Nam trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long xưa, gồm bốn ngôi đền: Đền Quán Thánh, đền Bạch Mã, đền Voi Phục và đền Kim Liên. So với ba ngôi chùa còn lại, chùa Kim Liên được thành lập muộn hơn (khoảng thế kỷ 16 – 17).
2. Giới thiệu về đền Kim Liên:
Đền Kim Liên đã trở thành một hiện tượng nổi bật của thủ đô Hà Nội xưa. Ngôi đền vừa đánh dấu ranh giới phía Nam của thành cổ, đồng thời tượng trưng cho sự canh giữ, bảo vệ an toàn cho kinh thành. Cùng với thần Long Đỗ, ở đền Bạch Mã, thần Trấn Vũ, ở đền Quán Thánh, thần Linh Lang, ở đền Thủ Lệ, họ hợp thành “Thăng Long tứ trấn”.
Đền Kim Liên là ngôi đền thiêng trấn giữ phương Nam, là địa chỉ thờ Cao Sơn Đại Vương. Tương truyền, ông là con của Lạc Long Quân & Âu Cơ, là một trong 50 người con theo mẹ lên núi, cùng Sơn Tinh đánh Thủy Tinh đem lại bình yên cho nhân dân. Rồi ông xin cha trở về vùng hoang vu lập nghiệp (vùng đất nay là phường Phương Liên, phường Quận, quận Đống Đa, Hà Nội). Để ghi nhớ công lao của ông, sau khi ông mất, nhân dân đã lập đền thờ ông. Theo các tài liệu lưu giữ tại đền, đền Kim Liên được vua Lý Thái Tổ lập ngay sau khi định đô Thăng Long (1010) với mục đích đảm bảo an toàn cho kinh đô mới ở phương Nam.
3. Lịch sử hình thành đền Kim Liên:
Tương truyền, Cao Sơn Đại Vương tên là Hiền, là Lạc tướng Vũ Lâm – thiếu niên thứ 17 của Lạc Long Quân và Âu Cơ, cai quản vùng núi phía Tây Ninh Bình. Đền thờ chính của thần ở huyện Phụng Hóa, nay là đền Lão ở xã Văn Phú, Nho Quan, Ninh Bình.
Một truyền thuyết khác kể rằng Cao Sơn Đại Vương mất vào thời Hùng Vương thứ 18 (Hùng Duệ Vương), và Quý Minh, cả hai là anh em họ của Tản Viên, đã giúp Vua Hùng đánh bại quân của Thục Phán. Cao Sơn Đại Vương về sau trú ở ngọn núi bên trái dãy Ba Vì (Tản Viên đứng giữa, bên phải là Quý Minh).
Theo tương truyền thủy tổ, Cao Sơn Đại Vương là con thứ 17 của Lạc Long Quân và Âu Cơ, Lạc tướng Vũ Lâm (Cao Sơn Đại Vương), theo lệnh của Hoàng Anh là Hùng Vương đầu tiên trong các vua tại thời điểm đó. Khi đi tuần, tướng quân Vũ Lâm đã nhiều lần đánh bại thổ phỉ, tiêu diệt thú rừng để nhân dân tìm được một loại cây cần bột làm bánh mà nhân dân đặt tên là cây Quảng Lăng.
Năm 1509, Lê Mân (Uy Mục Đế) bạo ngược, bất nhân muốn lật đổ vua Lê Tương Dực, cướp ngôi, gây loạn trong nước. Hàng tỷ người sống trong cảnh nghèo đói, gia đình họ bị sát hại. Vua Lê Tương Dực phải vào Tây Đô lánh nạn. Tháng 11 năm Kỷ Tỵ (1509), vua dấy binh khôi phục cơ nghiệp Cao Tổ.
Ba vị quan Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Hoằng Dụ, Nguyễn Văn Sự vâng lệnh vua đem quân chinh phạt Lê Mận.
Đoàn quân đến huyện Phụng Hóa (Ngô Quan, Ninh Bình) trong một khu rừng rậm, bất ngờ gặp một ngôi chùa mái tranh. Trong đền có bia đá “Cao Sơn Đại Vương”. Ba người đều kinh ngạc, cung kính chắp tay cúi đầu thưa rằng: “Nguyện Đức Thánh Linh Cao Sơn Đại Vương giúp chúng con trừ bạo, cứu muôn dân thoát khổ”. Thế rồi chưa đầy 10 ngày, đội quân hung hãn đã bị quét sạch, xua tan bóng quân thù trong Cấm Cung.
Sau khi dẹp loạn Lê Man (Uy Mục Đế), vua Lê Tương Dực cho dựng đền thờ Cao Sơn Đại Vương ở Phụng Hóa (nay là đền Lão, xã Vân Phượng, huyện Nho Quan, Ninh Bình). Năm 1510, vua cho dựng lại đền thờ “Cao Sơn Đại Vương Đại Vương to đẹp ở phường Kim Hoa, phía Nam Thăng Long. Do có công cùng Lê Tương Dực đánh dẹp Uy Mục, dân làng Kim Liên tôn thờ một lần nữa, được phong là Cao Sơn Đại Vương của kinh thành Nam Thăng Long.
4. Kiến trúc của Đền Kim Liên:
Đền Kim Liên được lập trên một gò đất cao phía đông đầm Kim Liên. Cổng đình và cửa chính của chánh điện đều quay mặt về hướng Tây nhìn ra đầm Kim Liên (đầm này hiện không còn do bị lấp để làm đường vành đai 1. Kiến trúc của đình gồm hai phần tương đối rõ nét: phần trước gò có cổng cột, hai gian hai bên sân gạch rộng và kiến trúc chính của di tích nằm trong một khuôn viên.
Đình chính gồm Nghi môn, Đại bái, Cấm cung. Nghi môn là ngôi nhà ba gian, xây theo kiểu hồi tường. Bốn bộ vì đỡ mái được thiết kế theo kiểu chồng giá chiêng, giấu cột. Từ ngoài vào trong có cổng xây cột, đỉnh cột đặt gạch gốm úp vào nhau, bên dưới treo đèn lồng, trong có tứ linh (long, ly, quy, phượng). dập nổi. Sau cổng là sân gạch rộng, có 2 dãy 3 gian vũ, quá giang theo kiểu nhà giàn.
Quần thể kiến trúc được xây dựng trên một khu đất rộng phía trước gò đất. Kiến trúc chính của khu di tích lịch sử tọa lạc trên một gò đất cao, gồm ba cổng, một ngôi đền thờ thần. Đi hết thềm, qua chín bậc gạch cao xây bằng gạch lớn thời Lê Trung Hưng nối kiến trúc ngoài trời với kiến trúc chính trên gò.
Hai bên bậc tam cấp, sát sân gạch có 2 con sấu đá thời Lê, hướng ra cổng ngoài. Hết bậc tam cấp ta gặp ba lối vào đền Cao Sơn, đây là ngôi nhà 3 gian xây theo kiểu tường hồi. Bốn bộ vì đỡ mái, thiết kế theo kiểu chồng giá chiêng, cột cái.
Chính điện hình chữ đinh, gồm chính điện và hậu cung. Đình đã có từ lâu đời, đến nay chỉ còn lại dấu tích là một nền đất cao và những cột đá to, dày.
Trong kiến trúc đền Kim Liên cũ, chỉ còn lại tòa hậu cung ba gian xây gạch thô, mái lợp ngói. Trong hậu cung đặt 02 long ngai và 10 pho tượng từ bên cạnh là Lăng chùa Kim Liên. Các chén được trang trí bằng kỹ thuật chạm nổi mây, câu đầu và hai câu đầu của hai vì bên ngoài trang trí chữ công, long mã, rồng đục kênh rạch, chạm nhiều lớp.
Hậu cung là một ngôi nhà ba gian dọc, xây bằng gạch, mái lợp ngói. Trong nhà vòm, đồ đạc bên trong được bố trí như sau: gian ngoài cùng, bệ gạch cao để đặt hương án; Gian thứ hai xây bệ gạch cao đặt bàn thờ và đồ tế tự.
Gian cuối cùng của hậu cung là nơi thờ Cao Sơn Đại Vương và hai vị nữ thần giao hòa. Long ngai thờ thần Cao Sơn có kích thước lớn, chạm trổ tinh xảo, thiết kế theo kiểu chân cá quỳ, các tầng trên đực hoa dây, là cổ vật quý hiếm. Di sản hai tấm bia còn lại, quan trọng nhất là tấm bia màu xám nhẵn; cao 02,43m; rộng 01,57m; dày 0,22m; trang trí rồng; yên ngựa và bờm lửa. Nổi bật trong thế kỷ thứ mười tám.
Tấm bia có tên “Cao Sơn Đại Vương có lòng đại thần”, văn bia do nhà sử học Lê Tung soạn năm 1510, đề cập đến công lao của thần Cao Sơn trong việc bí mật giúp vua Lê giành lại ngôi báu từ tay ông. Ngoài ra còn có 39 sắc phong cho Cao Sơn Đại Vương, trong đó có 26 sắc phong thời Lê Trung Hưng, 13 sắc phong thời Nguyễn, sớm nhất là sắc phong Vĩnh Tộ 02 (1620).
5. Một số chú ý khi đi đền Kim Liên:
Không để hương tắt khi đang thắp hương.
Không phải tất cả mọi nơi đều được cắm hương. Chỉ cắm vào bát hương, nếu bát hương đã có hương thì không cần cắm thêm. Không tự ý thắp hương lên tượng, gốc cây, mâm lễ… đa số chúng ta đều coi trọng và cho rằng nếu tự tay thắp hương thì sẽ có một khả năng linh thiêng, chỉ có Phật Thánh mới biết. Điều này là một quan niệm sai trái.
Tiền chỉ nên để ở hòm công đức chính, không rải khắp nơi trong chùa.
Khi vào nhà chính của đền, chùa không được vào từ cửa giữa mà phải vào từ hai cửa bên, đồng thời không được dẫm lên bậu cửa.
Không tùy tiện làm ồn ào, nói những lời bất kính với Phật, Thánh, không có thái độ cung kính như tự ý lấy tay chỉ vào tượng Phật.
Khi bước đi, đừng cắt ngang mặt người đang cúi đầu.
Muốn cúng thì không nên quỳ phía sau người đứng thắp hương. Tùy theo hệ phái, có thể đứng/quỳ khi hành lễ nhưng điều rất quan trọng là phải đi trước.
Không cúng đồ mặn tại các đền chùa như đình, chùa. Hầu hết anh chị em chúng tôi tại địa phương đều đánh giá và nhận xét rằng chỉ có ở chùa mới có cỗ chay, còn ở Thanh Thất thì không hẳn.
Khi vào chùa không đặt tiền thật, tiền âm phủ phủ lên bàn thờ, mâm lễ. Trong chùa, bạn có thể đặt tiền âm phủ, nhưng không phải tiền thật.
Rượu, bia, thuốc lá không được đặt trên bàn thờ Phật nhưng có thể đặt trên bàn thờ Thánh.
Nhiều bạn có thói quen mang đồ từ chùa về đặt trên bàn thờ, điều này là không nên. Cúng đã cúng rồi, không còn gì để cúng; Hơn nữa, nhiều vật dụng chứa trường khí âm, ảnh hưởng xấu đến bàn thờ.
Không được lấy nụ đem cắm trên bàn thờ nhà mình. Nụ chứa nhiều trường khí âm, có hại cho tổ tiên và thần linh trong nhà.
Những đồ vật như là vật may mắn là kẹo, diêm, bật lửa nhưng không được mang lên bàn thờ.
Bùa ngải, phù chú… đa phần đều có trường khí tiêu cực không nên mang vào nhà, lại càng không nên đặt trên bàn thờ hay nhét trong bóp. Để bùa trong ví chẳng khác nào mang theo luồng khí tiêu cực, hỗn loạn bên mình, chỉ chuốc thêm hại cho bản thân.