HIV là tên của một loại virus gây ra suy giảm hệ miễn dịch ở con người, gây nên bệnh AIDS. Vậy người có hành vi đe dọa truyền HIV cho người khác bị xử phạt như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Xử phạt hành chính hành vi đe dọa truyền HIV cho người khác:
Điều 8 Văn bản hợp nhất 33/VBHN-VPQH năm 2020 do Văn phòng Quốc hội ban hành hợp nhất Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) quy định về những hành vi bị nghiêm cấm trong Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS), Điều này quy định những hành vi bị nghiêm cấm Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) bao gồm có:
– Cố ý lây truyền hoặc truyền HIV cho những người khác.
– Đe dọa truyền HIV cho những người khác.
– Kỳ thị, phân biệt đối xử với những người nhiễm HIV.
– Cha, mẹ bỏ rơi con mà chưa thành niên nhiễm HIV; người giám hộ bỏ rơi người được mình giám hộ nhiễm HIV.
– Công khai tên, địa chỉ, hình ảnh của người nhiễm HIV hoặc có tiết lộ cho người khác biết việc một người nhiễm HIV khi mà chưa được sự đồng ý của người đó.
– Đưa tin bịa đặt về nhiễm HIV đối với những người không nhiễm HIV.
– Bắt buộc xét nghiệm HIV.
– Truyền máu, sản phẩm máu, ghép mô, bộ phận cơ thể mà có HIV cho người khác.
– Từ chối khám bệnh, chữa bệnh cho người bệnh vì biết hoặc có nghi ngờ người đó nhiễm HIV.
– Từ chối mai táng, hoả táng người chết vì lý do có liên quan đến HIV/AIDS.
– Lợi dụng hoạt động phòng, chống HIV/AIDS để trục lợi hoặc là thực hiện các hành vi trái pháp luật.
– Những hành vi bị nghiêm cấm khác theo quy định của pháp luật.
Theo đó, hành vi đe dọa truyền HIV cho người khác là một trong những hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật. Người nào có hành vi đe dọa truyền HIV cho người khác sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Khoản 2 Điều 24 Văn bản hợp nhất 01/VBHN-BYT 2022 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế có quy định xử phạt vi phạm quy định khác về phòng, chống HIV/AIDS, Điều này đã quy định xử phạt vi phạm quy định khác về phòng, chống HIV/AIDS như sau:
– Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với người mà có hành vi cản trở người lao động tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS.
– Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
+ Đe dọa truyền HIV cho những người khác;
+ Lợi dụng các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS để trục lợi.
Như vậy, người có hành vi đe dọa truyền HIV cho người khác sẽ bị phạt tiền từ từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.
2. Những người có thẩm quyền xử phạt người có hành vi đe dọa truyền HIV cho người khác và số tiền phạt tối đa được phạt:
Căn cứ Văn bản hợp nhất 01/VBHN-BYT 2022 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế thì những người sau đây có thẩm quyền xử phạt người có hành vi đe dọa truyền HIV cho người khác và số tiền phạt tối đa được phạt:
– Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã: có thẩm quyền phạt tiền đến 5.000.000 đồng;
– Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện: có thẩm quyền phạt tiền đến đến 25.000.000 đồng;
– Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: có thẩm quyền phạt tiền đến 50.000.000 đồng;
– Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành y tế đang thi hành công vụ: có thẩm quyền phạt tiền đến 500.000 đồng;
– Chánh Thanh tra các Sở, Chi Cục trưởng Chi cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình thuộc Sở Y tế: có thẩm quyền phạt tiền đến 25.000.000 đồng;
– Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành cấp sở và Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của chính cơ quan nhà nước có thẩm quyền được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành y tế: có thẩm quyền phạt tiền đến 25.000.000 đồng;
– Chánh Thanh tra Bộ: có thẩm quyền phạt tiền đến 50.000.000 đồng;
– Tổng Cục trưởng Tổng cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình: có thẩm quyền phạt tiền đến 50.000.000 đồng;
– Cục trưởng Cục Quản lý dược: có thẩm quyền phạt tiền đến 50.000.000 đồng;
– Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh: có thẩm quyền phạt tiền đến 50.000.000 đồng;
– Cục trưởng Cục Quản lý môi trường y tế: có thẩm quyền phạt tiền đến 50.000.000 đồng;
– Cục trưởng Cục Y tế dự phòng: có thẩm quyền phạt tiền đến 50.000.000 đồng;
– Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành y tế cấp bộ: có thẩm quyền phạt tiền đến 35.000.000 đồng;
– Chiến sĩ Công an nhân dân đang thi hành công vụ: có thẩm quyền phạt tiền đến 500.000 đồng;
– Trưởng trạm, Đội trưởng của Chiến sĩ Công an nhân dân đang thi hành công vụ: có thẩm quyền phạt tiền đến 1.500.000 đồng;
– Trưởng Công an cấp xã: có thẩm quyền phạt tiền đến 2.500.000 đồng;
– Trưởng đồn Công an: có thẩm quyền phạt tiền đến 2.500.000 đồng;
– Trưởng trạm Công an cửa khẩu, khu chế xuất: có thẩm quyền phạt tiền đến 2.500.000 đồng;
– Trưởng Công an cửa khẩu Cảng hàng không quốc tế: có thẩm quyền phạt tiền đến 2.500.000 đồng;
– Thủy đội trưởng: có thẩm quyền phạt tiền đến 2.500.000 đồng;
– Giám đốc Công an cấp tỉnh: có thẩm quyền phạt tiền đến 25.000.000 đồng;
– Chiến sĩ Bộ đội biên phòng đang thi hành công vụ: có thẩm quyền phạt tiền đến 500.000 đồng;
– Trạm trưởng, Đội trưởng của chiến sĩ Bộ đội biên phòng: có thẩm quyền phạt tiền đến 2.500.000 đồng;
– Đồn trưởng Đồn biên phòng; Hải đội trưởng Hải đội biên phòng; Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy Biên phòng Cửa khẩu cảng: có thẩm quyền phạt tiền đến 10.000.000 đồng;
– Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng cấp tỉnh, Hải đoàn trưởng Hải đoàn Biên phòng: có thẩm quyền phạt tiền đến 50.000.000 đồng;
– Cảnh sát viên Cảnh sát biển đang thi hành công vụ: có thẩm quyền phạt tiền đến 1.500.000 đồng;
– Tổ trưởng Tổ nghiệp vụ Cảnh sát biển: có thẩm quyền phạt tiền đến 2.500.000 đồng;
– Đội trưởng Đội nghiệp vụ Cảnh sát biển, Trạm trưởng Trạm Cảnh sát biển: có thẩm quyền phạt tiền đến 5.000.000 đồng;
– Hải đội trưởng Hải đội Cảnh sát biển: có thẩm quyền phạt tiền đến 10.000.000 đồng;
– Hải đoàn trưởng Hải đoàn Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn trinh sát: có thẩm quyền phạt tiền đến 15.000.000 đồng;
– Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và Pháp luật thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam: có thẩm quyền phạt tiền đến 25.000.000 đồng;
– Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam : có thẩm quyền phạt tiền đến 50.000.000 đồng.
3. Người đe dọa truyền HIV cho người khác để lấy tiền có phạm tội:
Theo quy định của pháp luật Hình sự thì người có hành vi đe dọa truyền HIV cho người khác để lấy tiền sẽ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản nếu như đủ các yếu tố cấu thành tội phạm về tội này. Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tội cưỡng đoạt tài sản, căn cứ Điều này thì người đe dọa truyền HIV cho người khác để lấy tiền phải chịu một trong những hình phạt sau:
– Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, nếu có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản (đe dọa truyền HIV cho người khác)
– Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm, nếu có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản (đe dọa truyền HIV cho người khác) mà thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Có tổ chức;
+ Mang tính chất chuyên nghiệp;
+ Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc là người không có khả năng tự vệ;
+ Chiếm đoạt tài sản có trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
+ Có gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
+ Có tái phạm nguy hiểm.
– Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm, nếu có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản (đe dọa truyền HIV cho người khác) mà thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Chiếm đoạt tài sản có trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
+ Lợi dụng về thiên tai, dịch bệnh.
– Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, nếu có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản (đe dọa truyền HIV cho người khác) mà thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Chiếm đoạt tài sản có trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
+ Lợi dụng về hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Văn bản hợp nhất 33/VBHN-VPQH năm 2020 do Văn phòng Quốc hội ban hành hợp nhất Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS);
– Văn bản hợp nhất 01/VBHN-BYT 2022 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế;
– Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017.