Dấu hiệu pháp lý của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Theo lý luận khoa học pháp lý hình sự, xét về cấu trúc “tội phạm có đặc điểm chung là đều được hợp thành bởi những yếu tố nhất định tồn tại không tách rời nhau nhưng có thể phân chia được trong tư duy và do vậy có thể cho phép nghiên cứu độc lập với nhau”. Những yếu tố đó là khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm và chủ thể của tội phạm. Trong đó, chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi phạm tội; mặt khách quan của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm là hai mặt thống nhất của hành vi phạm tội đó; còn khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội bị hành vi phạm tội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại.
Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi quy định tại
1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Có tính chất loạn luân;
d) Làm nạn nhân có thai;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
e) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Mục lục bài viết
- 1 1. Dấu hiệu khách thể của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:
- 2 2. Dấu hiệu mặt khách quan của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:
- 3 3. Dấu hiệu chủ thể của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:
- 4 4. Dấu hiệu mặt chủ quan của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:
1. Dấu hiệu khách thể của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại hoặc đe dọa xâm hại. Những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự được quy định tại Điều 8 – Bộ luật hình sự bao gồm: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
Bản chất của quan hệ xã hội là mối quan hệ giữa con người với con người, nó tồn tại một cách khách quan. Gây thiệt hại cho một mối quan hệ xã hội tức là xâm phạm vào một trong những yếu tố cấu thành của quan hệ xã hội và làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm. Khách thể của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015 là quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe, quyền được phát triển bình thường về thể chất và tâm sinh lý của người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, bảo đảm sự phát triển lành mạnh của giống nòi, bảo vệ thuần phong mỹ tục, truyền thống đạo đức … Trường hợp này, đối tượng tác động chính là sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của họ. Hay nói cách khác, xâm hại khách thể của tội này chính là sự xâm hại đến quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và sự an toàn về tình dục của người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Bên cạnh đó, đối tượng tác động của tội phạm này – đối tượng bị hành vi phạm tội tác động đến gây thiệt hại, hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, là con người cụ thể và đặc biệt đó là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Hành vi giao cấu của người đã thành niên đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là sự xâm hại đến sự phát triển bình thường của họ, theo quan điểm khoa học ở độ tuổi này thì về mặt tâm sinh lý của người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi còn chưa phát triển đầy đủ, toàn diện, do đó việc quan hệ tình dục sớm sẽ gây ra những hậu quả xấu đối với trẻ em về cả thể xác lẫn tinh thần. Ngoài ra do thiếu kiến thức nên việc quan hệ tình dục sớm sẽ là một trong những nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ nạo phá thai và lây nhiễm các bệnh xã hội. Việc quy định tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trong Bộ luật hình sự nhằm bảo vệ những người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi – là những người còn non nớt về mọi mặt, chưa biết tự bảo vệ mình, tránh bị người đã thành niên lợi dụng, dụ dỗ, lôi kéo.
2. Dấu hiệu mặt khách quan của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài thế giới khách quan bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, hoàn cảnh, địa điểm phạm tội.
Tuy nhiên không phải tất cả các biểu hiện của mặt khách quan đều được phản ánh trong cấu thành cơ bản của tội phạm, mà chỉ có dấu hiệu hành vi khách quan nào nguy hiểm cho xã hội thì mới là dấu hiệu bắt buộc trong mọi cấu thành tội phạm. Đối với tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là hành vi của một người đã thành niên quan hệ tình dục bằng hình thức giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi mà không xác định thủ đoạn để thực hiện được hành vi đó như ở tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (các Điều 141, 142 Bộ luật hình sự), tội cưỡng dâm và tội cưỡng dâm người dưới 16 tuổi (các Điều 143, 144 Bộ luật hình sự). Ở tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi không xác định thái độ của nạn nhân cũng như không xác định thủ đoạn như ở tội hiếp dâm và tội cưỡng dâm nên có thể hiểu có sự thuận tình đối với hành vi giao cấu cũng như hành vi quan hệ tình dục khác. Việc quy định độ tuổi của chủ thể và độ tuổi của nạn nhân gián tiếp thể hiện thủ đoạn lợi dụng sự non nớt, nhẹ dạ của nạn nhân để làm họ “thuận tình” với hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình sự khác. Dấu hiệu “thuận tình” là dấu hiệu để phân biệt tội phạm quy định tại Điều 145 với các tội phạm được quy định tại các Điều 142 và 144 Bộ luật hình sự.
Tội phạm này hoàn thành khi người phạm tội có hành vi giao cấu hoặc hành vi thực hiện quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Có nghĩa là người phạm tội chỉ cần có hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ hoặc sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thê, dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào.
3. Dấu hiệu chủ thể của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:
Chủ thể của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được quy định là người từ đủ 18 tuổi trở lên (người đã thành niên). Việc quy định này giới hạn phạm vi chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự và qua đó gián tiếp thể hiện rõ ranh giới giữa chủ thể của tội phạm và nạn nhân của tội phạm khi xảy ra hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác mà có sự đồng thuận giữa họ với nhau. Khoảng cách về tuổi giữa bên chủ thể của tội phạm là người đã thành niên, có kinh nghiệm sống và bên nạn nhân của tội phạm là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thiếu kinh nghiệm sống có thể thể hiện chủ thể của tội phạm đã lợi dụng tình trạng thiếu hiểu biết của nạn nhân về hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác để có thể thực hiện được hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác với nạn nhân.
Đối với tội phạm này thì khi thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, người phạm tội phải là người đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và họ phải nhận thức rõ được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi này, mặc dù có được sự đồng thuận của người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi nhưng người phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định. Nội dung điều luật không quy định cụ thể người phạm tội là nam hay nữ mà chỉ quy định là “Người nào” nên có thể hiểu là chủ thể của tội danh này có thể là nam hoặc có thể là nữ. Tuy nhiên, trên thực tế thì chủ thể là nữ rất hiếm khi xảy ra. Tóm lại, chủ thể của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 145, Bộ luật hình sự năm 2015 có thể là nam hoặc nữ, và là chủ thể đặc biệt, họ phải thỏa mãn các điều kiện về chủ thể đó là: Là người đã thành niên (đủ 18 tuổi trở lên); phải có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
4. Dấu hiệu mặt chủ quan của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:
Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của cách xử sự có tính chất tội phạm xâm hại đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự, nói một cách khác là thái độ tâm lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó (lỗi). Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi, động cơ, mục đích phạm tội. Tuy nhiên, lỗi luôn là yếu tố cơ bản và bắt buộc trong mọi loại tội phạm nói chung và trong tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi nói riêng, trong khi động cơ và mục đích phạm tội đóng vai trò thứ yếu trong mặt chủ quan của tội phạm này. Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội quyết tâm thực hiện việc phạm tội. Còn mục đích phạm tội là kết quả sẽ có trong tương lai mà người phạm tội dự tính và mong muốn đạt được bằng việc thực hiện hành vi phạm tội.
Đối với tội giao cấu hoặc thực hiện hành hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì động cơ mục đích của người phạm tội đương nhiên là để thỏa mãn ham muốn tình dục và thỏa mãn nhu cầu sinh lý của chính bản thân họ, vì lẽ đó các yếu tố này thường không được đề cập đến, hoặc ít được làm rõ trong quá trình điều tra vụ án như đối với các tội phạm khác, bằng việc ghi lời khai hoặc lời nhận tội của bị cáo trong các tài liệu điều tra, truy tố, xét xử của các Cơ quan tiến hành tố tụng.
Vấn đề quan trọng là lỗi được đặt ra trong cấu thành tội phạm này như thế nào vì cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm không đồng nhất, thậm chí là trái chiều khi phân tích mặt “lỗi” trong tội phạm này, cụ thể như sau:
Thứ nhất, trong trường hợp người phạm tội biết rõ đối tượng mình giao cấu là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi mà vẫn thực hiện hành vi giao cấu.
Thứ hai, nếu người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội mà không quan tâm (hoặc chấp nhận) đến tuổi của nạn nhân có phải là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi hay không nhưng thực tế nạn nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Thứ ba, nếu người phạm tội có ý thức chủ quan rằng đối tượng bị xâm hại là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi nhưng trên thực tế thì nạn nhân là người đã đủ 16 tuổi trở lên.
Thứ tư, trong trường hợp nếu người phạm tội có ý thức chủ quan lầm tưởng rằng nạn nhân không phải là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, do sự phát triển của cơ thể, dáng người hoặc bị nạn nhân lừa dối … nhưng trên thực tế nạn nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Phân tích bốn giả thuyết khoa học trên đây có thể đưa ra kết luận sau nếu căn cứ vào quy định của cấu thành tội phạm trong Điều luật: (i) Trường hợp thứ nhất và trường hợp thứ hai dễ dàng xác định được lỗi cố ý của người phạm tội nên người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. (ii) Trường hợp thứ ba thì người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội danh này. Mặc dù là bị nhầm về đối tượng tác động nhưng không thỏa mãn yếu tố cơ bản của tội phạm là tuổi của nạn nhân từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; (iii) Trường hợp thứ tư người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì đối tượng của tội phạm là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thỏa mãn cấu thành cơ bản của điều luật.
Song bên cạnh đó vẫn còn một số quan điểm tranh luận với hai trường hợp: Một là, đối với trường hợp 3 là trường hợp người phạm tội có ý thức chủ quan tin rằng đối tượng bị xâm hại là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nhưng trên thực tế thì nạn nhân lại không phải là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì người phạm tội cũng phải chịu trách nhiệm hình sự. Lý do đưa ra là quan điểm buộc tội thì lấy mục đích của tội phạm làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự nên cho rằng trong trường hợp này do chính bản thân người phạm tội mong muốn mục đích đạt được của hành vi là việc giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác được với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, còn việc bị hại không phải là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là nằm ngoài mục đích của người phạm tội, do đó họ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của họ về tội họ định phạm. Quan điểm thứ hai căn cứ vào đối tượng của tội phạm thì cho rằng họ không phạm tội này vì động cơ mục đích không phải là yếu tố định tội của tội phạm này, mà phải căn cứ vào hành vi khách quan, đối tượng bị xâm hại trực tiếp và khách thể do điều luật đó bảo vệ, trong trường hợp này họ không xâm phạm đến đối tượng và khách thể được bảo vệ của tội họ định phạm nên họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
Hai là, đối với trường hợp thứ tư của giả thuyết khoa học trên là trường hợp mà khi thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người bị xâm hại thì người phạm tội không có đủ điều kiện để nhận biết, và có ý thức chủ quan cho rằng bị hại không phải là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi do sự phát triển về cơ thể, hình dáng bên ngoài, phát
triển sinh lý … cá biệt có trường hợp chính bị hại lại là người đưa ra các thông tin giả để chứng minh là mình đã trên 16 tuổi (Như nói tăng năm sinh hoặc giấy khai sinh, chứng minh thư nhân dân giả …) để người phạm tội lầm tưởng và tin rằng bị hại là người trên 16 tuổi, nhưng trên thực tế bị hại trong trường hợp này lại là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Quan điểm của học viên cho rằng trong trường hợp này thì người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 145 của Bộ luật hình sự. Bởi vì đối với tội danh này, lỗi của người phạm tội phải là lỗi cố ý, người phạm tội phải biết rõ được người mà mình giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, mong muốn và đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội thì mới cấu thành tội này, vì lỗi xét về bản chất là sự phủ định chủ quan của người phạm tội đối với đòi hỏi và quy tắc xử sự phù hợp với yêu cầu của xã hội, nó được thể hiện thông qua năng lực nhận thức và năng lực hành vi của họ. Nếu trong trường hợp và điều kiện bình thường thì người phạm tội hoặc bất kỳ người nào cũng buộc phải nhận thức được, và khi có đủ điều kiện để nhận thức được hành vi của mình là hiểm cho xã hội mà họ vẫn lựa chọn cách xử sự đó thì lúc này họ mới là người có lỗi. Còn trong trường hợp người thực hiện hành vi bị cho là phạm tội lựa chọn cách xử sự trong điều kiện họ không buộc phải biết, hoặc trong điều kiện không thể biết hoặc không có điều kiện để biết và đối với mọi người bình thường thì cũng không thể biết được rằng hành vi của mình là trái với đòi hỏi của xã hội, thì khi đó họ hoàn toàn không có lỗi và không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.
Cụ thể đối với Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, về mặt chủ quan thì người phạm tội phải nhận thức được rõ hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với nạn nhân của mình là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Tức là phải căn cứ vào năng lực nhận thức về hành vi của người phạm tội, mà năng lực nhận thức của người phạm tội phụ thuộc vào hai yếu tố. Thứ nhất là người phạm tội phải là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và không thuộc các trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 21 của Bộ luật hình sự. Thứ hai là người phạm tội phải có đủ điều kiện để nhận thức được hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với nạn nhân là trái pháp luật thì hành vi của họ mới bị coi là có lỗi. Trong trường hợp này phải căn cứ vào các tình tiết thực tế của vụ án để xác định có khả năng người phạm tội không thể biết được đối tượng là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi hay không, vì nạn nhân có thể phát triển phổng phao hơn so với độ tuổi hoặc đi học sớm hơn tuổi, ngoài ra cũng cần phải căn cứ vào tình hình điều kiện thực tế của vụ án để đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi để xác định họ có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không.
Trong cấu thành tội phạm của tội Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được quy định ở Điều 145, Bộ luật hình sự thì dấu hiệu lỗi trong mặt chủ quan là một trong những nội dung bắt buộc bên cạnh dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mặt khách quan của tội phạm. Người phạm tội nhận thức rõ được rằng người mà mình giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, hoặc chấp nhận (cố ý gián tiếp) mặc dù họ có đủ điều kiện để lựa chọn cách xử sự hoặc thực hiện hành vi của mình cho phù hợp với đòi hỏi của xã hội, nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nên họ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình. Những trường hợp thật sự có sự nhầm tưởng về tuổi thì không cấu thành tội phạm này vì không thỏa mãn dấu hiệu lỗi.