Việt Nam là một quốc gia có tôn giáo khá đa dạng như đạo Phật, Công giáo, đạo Thiên chúa, đạo Tin lành, đạo Cao đài…. Mỗi tôn giáo đều có những bản sắc riêng biệt cũng như tín ngưỡng và định hướng riêng. Đạo tin lành là một trong số những tôn giáo khá nổi tiếng tại Việt Nam. Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ chia sẻ một số thông tin về đạo Tin lành.
Mục lục bài viết
1. Giáo lý của đạo Tin lành:
Đạo Tin lành có nhiều tổ chức giáo phái, tuy có khác nhau về giáo lý, tập quán tôn giáo và tổ chức giáo hội nhưng nhìn chung thì thống nhất về nội dung và nguyên tắc. Có thể khái quát và so sánh với Thiên Chúa giáo như sau:
Thứ nhất, về thần học: Đạo Tin lành là một nhánh của đạo Thiên Chúa nên cũng lấy Kinh thánh làm cơ sở giáo lý. Không giống như Thiên Chúa giáo, những người theo đạo Tin lành ủng hộ quan điểm của Kinh thánh như là tiêu chuẩn cơ bản duy nhất của đức tin và hành động, nhưng không coi Kinh thánh là cuốn sách của riêng linh mục mà tất cả các tín đồ, giáo sĩ Tin lành đều có thể đọc, sử dụng, nói và làm theo Kinh thánh.
Đạo Tin Lành cũng thờ Thiên Chúa và nhìn nhận Thiên Chúa có ba ngôi: Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần; tin rằng tất cả mọi thứ được tạo ra bởi Thiên Chúa. Nhưng với niềm tin về sự ra đời của Chúa Giêsu bởi Đức Trinh Nữ Maria, Đạo Tin Lành cho rằng Thiên Chúa chỉ mượn lòng của Maria làm nơi sinh, chứ Maria không thể là mẹ Thiên Chúa, kể cả sau khi Maria sinh Chúa Giêsu, bà không còn đồng trinh và sinh nhiều con như: Jacob, Joseph, Simon, Gruda… Đó là lý do tại sao họ chống lại bất kỳ sự thờ phượng nào đối với Maria.
Là một tôn giáo đặc biệt đề cao lý trí trong niềm tin, vì vậy, luật lệ, nghi lễ và thực hành của đạo Tin lành rất đơn giản, không phức tạp. Đạo Tin lành không tôn thờ các hình tượng, hiện tượng hay dị vật phản đối việc hành hương đến các thánh địa. Trong bảy phép bí tích của đạo Thiên Chúa giáo, đạo Tin lành chỉ công nhận và thực hành bí tích rửa tội và rước lễ. Trong khi người Thiên Chúa giáo xưng tội trong bí mật, với hình thức chính là linh mục, thì người Tin lành có thể xưng tội và cầu nguyện đứng giữa nhà thờ hoặc đám đông để ăn năn hoặc bày tỏ ý muốn của mình một cách công khai. Nhà thờ Tin Lành thường có kiến trúc đơn giản và hiện đại, có một cây thánh giá trong nhà thờ.
2. Cơ cấu tổ chức của đạo Tin Lành:
Về nhân sự, đạo Tin lành cũng có giáo sĩ như Thiên Chúa giáo. Các giáo sĩ Tin lành vừa có thể là linh mục vừa có thể là giảng sư và không áp dụng luật độc thân như các linh mục Thiên Chúa giáo. Hầu như các giáo sĩ bên Tin Lành đều là phụ nữ. Mặc dù các giáo sĩ cũng được coi là những người chăm sóc các linh hồn tín đồ, nhưng họ không có quyền ban phước lành hay tha thứ cho các con chiên thay cho Chúa.
Về tổ chức, đạo Tin lành không tạo ra một tổ chức giáo hội chung cho toàn đạo, mà theo xu hướng xây dựng các giáo hội độc lập riêng biệt với nhiều hình thức khác nhau theo từng hệ phái, từng dân tộc. Trong tổ chức giáo hội, các hệ phái Tin lành đề cao việc giao quyền tự quản cho các giáo hội cơ sở, các giáo hội cấp trên phát triển theo điều kiện cho phép. Đạo Tin lành không có linh mục cố định như bên Thiên Chúa giáo, mà cả tín đồ và linh mục đều tham gia thông qua bầu cử dân chủ…
3. Đạo Tin Lành trên thế giới:
So với các tôn giáo lớn trên thế giới như Phật giáo, Thiên Chúa giáo hay Hồi giáo thì đạo Tin lành xuất hiện khá muộn. Tuy nhiên, đạo Tin lành từ khi ra đời đã phát triển rất thành công và trở thành tôn giáo quốc tế với khoảng 550 triệu tín đồ, gần 300 hệ phái, tổ chức khác nhau và có mặt ở nhiều quốc gia. Vào đầu thế kỷ 16, sự phân tách Kitô giáo diễn ra ở châu Âu, dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Về cơ bản, đó là một cuộc cải cách toàn diện về chính trị – xã hội và tôn giáo. Đạo Tin lành là kết quả của sự khủng hoảng nghiêm trọng về uy tín của Thiên Chúa giáo do tham vọng vinh hoa trần thế, cuộc sống xa xỉ, sự sa sút đạo đức của hàng giáo phẩm; nó là kết quả của sự rối rắm và bế tắc của nền thần học kinh viện thời trung cổ; là kết quả đầu tiên mà giai cấp tư sản non trẻ đạt được trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp phong kiến có cơ sở tư tưởng là Thiên Chúa giáo.
Phong trào cải cách tôn giáo bắt đầu ở Đức. Người khởi xướng và lãnh đạo nổi tiếng của phong trào này là Martin Luther. Ông đã bỏ việc học luật ở Erfurt để quyết định “dâng mình cho Chúa” và sau đó gia nhập dòng Augustinô. Luther sau đó trở thành giáo sư và tiến sĩ thần học tại Đại học Wittenberg. Khi có dịp đến Rôma, Luther hoàn toàn thất vọng, vì ông đã tận mắt chứng kiến cuộc sống xa hoa trần tục của nhiều giáo sĩ. Với sự kiện này, ông đã có ý định dấy lên phong trào cải cách tôn giáo. Sau đó Luther xuất bản 95 Luận cương, trong đó ông kịch liệt phê phán việc lợi dụng danh thánh, buôn thần bán thánh để bóc lột con người, lên án Giáo hoàng và thế lực La Mã suy đồi, bại hoại…
Những đề xuất của Luther được nhiều tầng lớp người Đức, đặc biệt là các vương hầu quý tộc, ủng hộ. Trước năm 1532, trước sự lớn mạnh của phong trào cải cách tôn giáo, hoàng đế Đức đã phải công nhận quyền tự do hoạt động của đạo Tin lành.
Thụy Sĩ cũng là trung tâm cải cách tôn giáo lớn thứ hai gắn liền với tên tuổi của Jean Calvin. Ông là người Pháp, từng học thần học và luật với học bổng của Giáo hội Công giáo, nhưng vì theo phong trào cải cách của Luther nên bị trục xuất khỏi Pháp và sống ở Thụy Sĩ. Calvin đã nghiên cứu và hình thành rõ ràng các giáo lý, nghi thức cải cách và tiêu chuẩn cho hầu hết các hệ phái Tin lành… Phong trào cải cách tôn giáo phát triển từ trung tâm Đức và Thụy Sĩ, nhanh chóng lan sang Pháp, Scotland, Ireland, Hà Lan, Anh, Na Uy, Đan Mạch… Mãi đến cuối thế kỷ 16, một tôn giáo mới tách khỏi Thiên Chúa giáo được hình thành. Trong quá trình phát triển, đạo Tin lành đã hình thành nhiều hệ phái khác nhau như Trưởng lão, Menhon, Mặc môn, Ngũ tuần, Giám lý, Thanh giáo và Giáo hội Công giáo, Cơ đốc phục lâm, Giáo hội hiệp nhất, Môn đệ Chúa Kitô, Hội truyền giáo Tin lành…
4. Sự thay đổi của đạo Tin Lành khi du nhập vào Việt Nam:
Sau năm 1975, Nhà nước Việt Nam không công nhận các tổ chức Tin lành nên hoạt động tôn giáo của tín đồ và hoạt động của chức sắc Tin lành bị hạn chế. Trong bối cảnh đó, đạo Tin lành không đơn giản tan rã như nhiều người vẫn nghĩ mà tôn giáo này vẫn tồn tại, thậm chí phát triển rất nhanh. Số người theo đạo Tin lành (rửa tội – lễ Báp têm) theo từng năm càng ngày càng tăng, năm 1975: 180 nghìn người; 320 nghìn người năm 1990, 368 nghìn người năm 1995; 2000: 504 nghìn người, 2005: 950 nghìn người; 2010: 1,05 triệu người, 2017: 1,35 triệu người (trong tổng số gần 1,5 triệu tín đồ Tin lành). Như vậy, đến nay số tín đồ Tin lành (đã rửa tội) tăng gấp 6 lần, số tín đồ Tin lành nói chung tăng hơn 8 lần so với năm 1975.
Khi số lượng tín đồ tăng lên, các hoạt động của đạo Tin lành được mở rộng. Trong khi trước năm 1975, đạo Tin lành hoạt động chủ yếu ở miền Nam, còn ở miền Bắc số tín đồ chỉ tập trung ở 10 tỉnh thành thì nay đã lan rộng ra cả nước.
Cùng với sự phát triển số lượng của tín đồ và phạm vi hoạt động được mở rộng là sự phát triển của các chi nhánh Tin lành (đơn vị chính, còn được gọi là hội thánh cơ sở) và các điểm nhóm. Trước năm 1975, đạo Tin lành có khoảng 550 chi hội và chi nhánh (trong đó Hội thánh Tin lành Việt Nam có 530 chi hội), đến nay cả nước có 606 chi hội, 4757 điểm nhóm theo cộng đồng dân cư. Về sự gia tăng số lượng tín đồ đạo Tin lành ở nước ta, không thể nói đến sự xâm nhập của tôn giáo này trong đồng bào các dân tộc thiểu số ở Cao nguyên Trung tâm và Tây Bắc (tên gọi chung của vùng núi phía Bắc). Đạo Tin lành đến Tây Nguyên từ năm 1930. Trong những năm 1930-1975, có khoảng 55-60 nghìn tín đồ Tin lành là người dân tộc thiểu số sinh sống. Sau năm 1975, vì quan hệ với tổ chức phản động FULRO nên tạm dừng mọi hoạt động, nhưng vì nhiều lý do, đạo Tin lành vẫn tồn tại và phát triển, thậm chí rất nhanh trong những năm 90 của thế kỷ XX.
Tính đến năm 2017, có 615.111 tín đồ Tin lành ở Tây Nguyên (trong đó có khoảng 550 nghìn người là người dân tộc thiểu số), gấp 10 lần so với trước năm 1975 là 1863 nhóm của hơn 20 tổ chức và hệ phái. Đắk Lắk có 188.169 người, Gia Lai có 138.033 người, Lâm Đồng có 92.815 người, Bình Phước có 60.458 người, Đắk Nông có 63.830 người và Kon Tum có 16.806 người.
Ở Tây Bắc, từ năm 1985, có một số người Hmông ở Hà Giang, Lào Cai, Điện Biên, Sơn La, Lai Châu, v.v… nghe đài tiếng Hmông của The Far East Broadcasting Company (FEBC) từ Manila, Philippines đã chuyển sang đạo Tin lành lấy tên là Vàng Chứ. Vào cuối những năm 1980, một số người đã chuyển sang đạo Thiên Chúa giáo, nhưng đến đầu những năm 1990, đài FEBC và Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) đã chuyển những người đó sang đạo Tin lành. Đồng thời, các tổ chức Tin lành đã kết nạp tín đồ người Mông và xây dựng tổ chức. Nếu như năm 1996 cả nước có gần 60.000 người Mông theo đạo Tin lành thì đến năm 2005, khi Chỉ thị 01/CT-TTg được thực hiện, số người Mông theo đạo Tin lành đã tăng lên 110.000 người (chiếm 13% tổng số người Mông). Số người Mông theo đạo Tin lành ở các tỉnh miền núi phía Bắc tăng lên 215 nghìn người vào năm 2017. Ngoài người Hmông, có khoảng 20.000 dân tộc thiểu số khác như Dao, Sán Chỉ, Thái và những người khác cũng theo đạo Tin lành ở khu vực Tây Bắc trong thời kỳ đó.
Như vậy nếu năm 1975 cả nước có khoảng 55 nghìn tín đồ Tin lành thuộc đồng bào dân tộc thiểu số thì đến năm 2017 số tín đồ đã tăng lên 775 nghìn người, tức tăng hơn 14 lần.
Có thể thấy, sự ra đời của nhiều tổ chức, hệ phái Tin lành là một trong những đặc điểm của sự thay đổi Tin lành ở Việt Nam hiện nay. Ngoài 10 tổ chức, hệ phái Tin lành được công nhận, Việt Nam còn có 78 tổ chức, điểm nhóm Tin lành chưa được công nhận đang hoạt động tại 63 tỉnh, thành phố trên cả nước. Hầu hết các tổ chức Tin lành chưa được công nhận đều là các tổ chức, nhóm mới thành lập hoặc mới thành lập, tên gọi và thông tin không ổn định, thậm chí có trường hợp tên trùng nhau, thành viên có khi đăng ký ở các cơ sở giáo dục khác nhau. Có thể thấy, nếu năm 1975 có khoảng 20 tổ chức, hệ phái Tin lành hoạt động, thì đến năm 2017 đã có 88 tổ chức, nhóm Tin lành hoạt động tại Việt Nam.
5. Nguyên nhân về sự thay đổi của đạo Tin lành ở Việt Nam:
Để giải thích về sự biến đổi của đạo Tin lành ở Việt Nam hiện nay, không nên cho rằng nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi này là vì những đồng bào bị dụ dỗ hấp dẫn bởi vật chất; cũng không nên lý giải theo logic hình thức rằng việc theo đạo là do thuyết giảng, trong khi đồng bào không cần; càng không thể một mực cho rằng đạo Tin lành chỉ nằm trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Tóm lại, có thể khẳng định rằng, vấn đề đạo Tin lành phát triển nhanh và mạnh ở nước ta thời gian gần đây cần phải được nghiên cứu cả về mặt chủ quan và khách quan, cả về mặt kinh tế và xã hội. Chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, nhất là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã tác động đến sự chuyển hóa đạo Tin lành ở Việt Nam.
Quá trình tái thiết, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã tạo môi trường thích hợp cho đạo Tin lành – một tôn giáo cải cách phù hợp với tầng lớp thành thị của một xã hội công nghiệp. Với quá trình đổi mới, Việt Nam đã mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới, trong đó có các nước có đông tín đồ Tin lành. Đạo Tin lành hiện có 820 triệu tín đồ, là tôn giáo lớn thứ tư trên thế giới (sau Hồi giáo với 1,5 tỷ tín đồ, Thiên Chúa giáo trên 1,25 tỷ tín đồ và Ấn Độ giáo trên 1,25 tỷ tín đồ và 1,1 tỷ tín đồ). Hai quốc gia có đông tín đồ Tin lành là Hoa Kỳ và Hàn Quốc. Hoa Kỳ được coi là trung tâm đạo Tin lành của thế giới, với khoảng 180 triệu tín đồ (gần 60% tổng dân số) thuộc hàng trăm hệ phái và hàng nghìn tổ chức Tin lành. Từ trước đến nay, đạo Tin lành Hoa Kỳ là nguồn truyền đạo và hỗ trợ cho đạo Tin lành ở Việt Nam. Ngày nay, Hàn Quốc được coi là một quốc gia theo đạo Tin Lành ở Châu Á. Trong hơn 30 năm qua, số tín đồ Tin lành ở Hàn Quốc đã phát triển nhanh chóng lên khoảng 22 triệu tín đồ, chiếm gần 50% tổng dân số và trở thành tâm điểm truyền đạo trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Khi quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc, Việt Nam – Hoa Kỳ ngày càng phát triển, ảnh hưởng của đạo Tin lành Mỹ, Tin lành Hàn Quốc đối với đạo Tin lành Việt Nam là điều tất yếu.
Cũng cần lưu ý đến bối cảnh toàn cầu hóa cho phép đạo Tin lành, giống như nhiều tôn giáo khác, được truyền bá đến nhiều khu vực trên thế giới. Toàn cầu hóa đi cùng với sự phát triển bùng nổ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin. Ngày nay, sự bùng nổ của các phương tiện truyền thông đại chúng đang giúp Tin Lành được truyền bá rộng rãi không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia khác trên thế giới. Trong lịch sử, các nhà truyền giáo Tin lành đã rất chú trọng đến việc sử dụng các phương tiện truyền thông cho công việc truyền giáo. Một ví dụ điển hình là trường hợp của người Mông ở vùng Tây Bắc nước ta, theo đạo Tin lành chủ yếu nhờ nghe đài FEBC.