Đạo luật tái đầu tư cộng đồng (Community Reinvestment Act) là gì? Đạo luật phục hồi và tái đầu tư của Mỹ được hiểu là như thế nào? Bài viết dưới đây của chúng minh sẽ giúp các bạn nắm bắt rõ hơn. Cùng tham khảo nhé.
Mục lục bài viết
1. Đạo luật tái đầu tư cộng đồng là gì?
1.1. Khái niệm:
Tái đầu tư được hiểu là việc sử dụng cổ tức, tiền lãi hoặc bất kỳ hình thức lợi nhuận nào, hình thức cung cấp thu nhập khác nhận được từ tài khoản đầu tư để mua thêm cổ phiếu hoặc đơn vị khác, đầu tư hoàn trả những gì bạn đã đầu tư thay vì nhận tài khoản phân phối tiền mặt
Đạo luật Tái đầu tư Cộng đồng (CRA), bị cấm thi hành vào năm 1977, yêu cầu Cục Dự trữ Liên bang và các cơ quan quản lý Ngân hàng Liên bang khác hỗ trợ các tổ chức tài chính lớn đáp ứng nhu cầu tín dụng của họ. Sử dụng hiệu suất của các cộng đồng nơi họ kinh doanh, bao gồm cả những người có thu nhập thấp và trung bình (LMI).
Đạo luật Tái đầu tư Cộng đồng (CRA) là luật liên bang yêu cầu các ngân hàng phải đáp ứng nhu cầu tín dụng của toàn bộ cộng đồng nơi ngân hàng nhận tiền gửi, bao gồm cả những người có thu nhập thấp và trung bình. Các giám sát viên tài chính được yêu cầu sử dụng hệ thống xếp hạng mô tả cực đoan để đánh giá hiệu suất của thủ tục CRA và yêu cầu họ kiểm tra xếp hạng của ngân hàng và người kiểm tra công việc. CRA xem xét người cho vay. Xếp hạng CRA tổng thể (xuất sắc, trưởng thành, cần cải thiện về thiện chí và không tuân thủ) có sẵn từ Tổng công ty Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang và từ các cơ quan quản lý ngân hàng.
1.2. Cơ quan quản lý ngân hàng cho CRA:
Hiện tại có ba cơ quan ngân hàng liên bang hoặc cơ quan quản lý chịu trách nhiệm về CRA.
Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC)
Hội đồng Dự trữ Liên bang (FRB)
Văn phòng kiểm soát tiền tệ (OCC)
2. Yếu tố để tái đầu tư hiệu quả:
Để tái đầu tư hiệu quả, các nhà đầu tư cần chú ý đến các vấn đề sau đây:
– Tính rủi ro của các dự án, chương trình mà mình định đầu tư:
+ Rủi ro bên ngoài: ví dụ tình hình chính trị, kinh tế, chiến tranh, xung đột, rủi ro về khách hàng hoặc nhà cung cấp, rủi ro về công nghệ vận hành.
+ Rủi ro bên trong: ví dụ như vấn đề nhân lực, các đối tác góp vốn tiến hành rút vốn, vấn đề điều hành, quản lí dự án
– Phải đầu tư xây dựng nguồn nhân lực, tài lực, vật lực trước khi mở rộng hoạt động kinh doanh thì mới dạt hiệu quả
3. Vai trò của Cục Dự trữ Liên bang:
Cục Dự trữ Liên bang giám sát các hàng thành viên của tiểu bang – hoặc, các ngân hàng do tiểu bang điều lệ đã đăng ký và được chấp nhận là một phần của Hệ thống Dự trữ Liên bang – để nắm giữ CRA.
Để hoàn thành vai trò của mình, Cục Dự trữ Liên bang thực hiện:
Kiểm tra các ngân hàng thành viên của bang để đánh giá và xếp hạng hoạt động của họ theo CRA;
Xem xét hiệu suất CRA của ngân hàng trong bối cảnh thông tin giám sát khác nhau khi phân tích các đơn xin gia nhập, mua lại và mở chi nhánh;
Chia sẻ thông tin về các kỹ thuật phát triển cộng đồng với các chủ ngân hàng và công ty;
4. Đạo luật Phục hồi và Tái đầu tư của Mỹ được hiểu như thế nào?
Đạo luật Phục hồi và Tái đầu tư của Mỹ còn được gọi là gói kích cầu 2009 hay gói kích thích Obama, tên tiếng Anh là American Recovery and Reinvestment Act, viết tắt là ARRA.
Đạo luật bao gồm nhiều khoản chi tiêu của chính phủ liên bang nhằm chống lại tình trạng mất việc làm liên quan đến cuộc Suy thoái năm 2008.
Đạo luật Phục hồi và Tái đầu tư của Mỹ (ARRA) Kêu gọi thiết kế chi tiêu liên bang để tạo việc làm mới và khôi phục việc làm bị mất trong cuộc Đại suy thoái năm 2008 chính phủ để bù đắp cho sự chậm lại trong đầu tư tư nhân trong năm đó.
Nhà lập pháp bắt đầu soạn thảo dự luật vài tháng trước lễ nhậm chức của Tổng thống Barrack Obama vào tháng 1 năm 2009. Tổng thống và các phụ tá đã làm việc với các thành viên Quốc hội để thực hiện quy trình sửa đổi. thay đổi một lý do được Hạ viện thông qua vào ngày 28 tháng 1 năm 2009. Thượng viện Hoa Kỳ đã thông qua vào ngày 10 tháng 2.
Các cuộc họp hội nghị đàm phán diễn ra nhanh chóng, với việc các nhà lãnh đạo đảng Dân chủ cuối cùng đồng ý cắt giảm chi tiêu cho dự luật để thu hút nhiều phiếu bầu của đảng Cộng hòa. Mức giá cuối cùng là 787 yên đại diện cho gói chi tiêu chống suy thoái kinh tế lớn nhất kể từ Thế chiến II. Tổng thống Obama đã ký dự luật thành luật vào ngày 17 tháng 2 năm 2009.
Trong số các sáng kiến của ARRA:
Giảm thuế cho các hộ gia đình, bao gồm khoản khấu trừ lên tới 800 đô la cho mỗi gia đình và tăng 70 tỷ đô la trong nguồn Thuế tối thiểu thay thế.
Mở rộng chăm sóc sức khỏe, bao gồm 87 đô la viện trợ cho các tiểu bang để giúp trang trải các chi phí bảo hiểm y tế Medicare bổ sung liên quan đến suy thoái kinh tế.
Hơn 100 tỷ đô la được chi cho giáo dục, bao gồm hỗ trợ trả lương cho giáo viên và các chương trình Head Start.
5. Đạo luật Phục hồi và Tái đầu tư của Mỹ có tác dụng gì?
Phản ứng với ARRA ban đầu là sự pha trộn giữa tích cực và tiêu cực. Những người ủng hộ cảm thấy rằng chi tiêu kích thích là không đủ để đưa nền kinh tế quốc gia thoát khỏi suy thoái. Paul Krugman, trên tờ New York Times tháng 11 năm 2009, tuyên bố ARRA đã đạt được thành công ban đầu với trở ngại duy nhất là chưa đủ xa để vực dậy nền kinh tế Mỹ. Krugman lập luận rằng kích thích kinh tế đã giúp đảo ngược sự thất bại của ngành công nghiệp nhưng không đủ mạnh để thúc đẩy tăng trưởng tổng sản phẩm quốc gia hơn nữa trong những năm tiếp theo.
Những người phản đối ARRA cảm thấy rằng chi tiêu của chính phủ sẽ luôn kém hiệu quả và bị cản trở bởi những người trở nên sợ hãi như bộ máy quan liêu. Trong một bài báo trên tạp chí Forbes vào tháng 6 năm 2009, nhà kinh tế học Lee Ohmate lập luận rằng nền kinh tế Mỹ đã sớm có những dấu hiệu phục hồi mà không cần bất kỳ biện pháp kích thích nào. Ohmate khẳng định rằng các ưu đãi của chính phủ đối với chi tiêu tư nhân và việc tuyển dụng sẽ làm được nhiều việc hơn là làm nền kinh tế tràn ngập những đồng đô la không kiếm được.
Việc thiếu kịch bản ngược lại khiến việc đánh giá ARRA trở nên khó khăn hơn. Không thể nói chắc chắn rằng nền kinh tế sẽ đi theo hướng nào nếu không có Đạo luật ARRA. Các điều kiện kinh tế chắc chắn đã được cải thiện kể từ cuộc suy thoái năm 2008, nhưng các lập luận ủng hộ và phản đối vai trò của ARRA vẫn có thể được đưa ra để giải thích sau sự kiện này.
Đặc biệt, Luật quy định giới hạn đối tượng mua, chuyển nhượng trái phiếu là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Do thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển nhanh trong thời gian gần đây và sự chuyển hướng giám sát kênh huy động vốn từ cấp tín dụng sang phát hành trái phiếu doanh nghiệp của các ngân hàng, tuy nhiên vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Để hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư mua trái phiếu và hạn chế doanh nghiệp sử dụng phương thức này để huy động vốn, pháp luật thường hạn chế người mua trái phiếu là cá nhân đối với nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và giới hạn thời hạn chuyển nhượng trái phiếu riêng lẻ giữa các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Hạn chế này không ảnh hưởng đến quyền của các nhà đầu tư khác không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và quyền lợi của doanh nghiệp vì doanh nghiệp hoàn toàn có thể phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động vốn từ các nhà đầu tư chứng khoán thiếu chuyên nghiệp. Nhà đầu tư chứng khoán không chuyên nghiệp có thể ủy thác đầu tư để lại phiếu cá nhân thông qua nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.