Thường Tín là huyện ngoại thành được định hướng phát triển thành quận phía Nam TP Hà Nội. Trước những tiềm năng, lợi thế phát triển đô thị, địa phương này đang nỗ lực triển khai đồng bộ các giải pháp trong công tác phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch, hoàn thiện hạ tầng khung. Xin mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết sau: Danh sách xã, phường thuộc huyện Thường Tín (Hà Nội).
Mục lục bài viết
1. Danh sách đơn vị xã, phường thuộc huyện Thường Tín (Hà Nội):
Huyện Thường Tín có 29 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Thường Tín (huyện lỵ) và 28 xã:
Số thứ tự | Danh sách đơn vị xã thuộc huyện Thường Tín (Hà Nội) |
1 | Thị trấn Thường Tín (huyện lỵ) |
2 | Chương Dương |
3 | Dũng Tiến |
4 | Duyên Thái |
5 | Hà Hồi |
6 | Hiền Giang |
7 | Hòa Bình |
8 | Khánh Hà |
9 | Hồng Vân |
10 | Lê Lợi |
11 | Liên Phương |
12 | Mình Cường |
13 | Nghiêm Xuyên |
14 | Nguyễn Trãi |
15 | Nhị Khê |
16 | Ninh Sở |
17 | Quất Động |
18 | Tân Minh |
19 | Thắng Lợi |
20 | Thống Nhất |
21 | Thư Phú |
22 | Tiền Phong |
23 | Tô Hiệu |
24 | Tự Nhiên |
25 | Vạn Điểm |
26 | Văn Bình |
27 | Văn Phú |
28 | Văn Tự |
29 | Vân Tảo |
2. Thông tin chung về huyện Thường Tín:
2.1. Vị trí địa lý:
Huyện Thường Tín là một huyện ngoại thành phía nam của Hà Nội, cách trung tâm thành phố khoảng 16 km.
-
Phía Đông giáp huyện Văn Giang và huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên
-
Phía Tây giáp huyện Thanh Oai
-
Phía Nam giáp huyện Phú Xuyên
-
Phía Bắc giáp huyện Thanh Trì
2.2. Địa hình và khí hậu:
Thường Tín có địa hình khá bằng phẳng, địa hình có hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây. Độ chênh lệch cao thấp giữa các vùng không đáng kể. Huyện mang đặc điểm của khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, mưa nhiều, khí hậu cả năm khá ấm, chia thành hai màu rõ rệt. Mùa nóng đồng thời là mùa mưa, mùa lạnh cũng là mùa khô, mùa đông chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc, nhiệt độ bình quân hàng năm 23,5 ⁰C.
Vị trí và khí hậu vùng đồng bằng sông Hồng mang lại lợi thế lớn đối với sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, đời sống, sử dụng đất và phát triển kinh tế.
2.3. Diện tích và dân số:
Huyện Thường Tín có diện tích tự nhiên là 127,59 km². Theo số liệu thống kê năm 2021, dân số của huyện này là 262.222 người với mật độ dân số khoảng 2.055 người/km². Đa số cư dân tại đây là người Kinh, có một tỷ lệ nhỏ người theo đạo Thiên Chúa và Tin Lành, khoảng 6% tổng dân số.
Mật độ dân số của huyện Thường Tín phản ánh nhiều khía cạnh của sự phát triển kinh tế – xã hội và quy hoạch đô thị. Mật độ dân số vào năm 2021 cho thấy sự tăng trưởng dân số đáng kể của huyện, liên quan đến sự mở rộng của khu vực đô thị và sự di cư từ các vùng nông thôn. Sự gia tăng dân số này cũng đặt ra những thách thức về cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng và quản lý nguồn lực. Đồng thời, mật độ dân số cao cũng làm nổi bật những vấn đề về môi trường như ô nhiễm và quản lý chất thải, đòi hỏi sự chú trọng hơn vào các giải pháp bền vững.
2.4. Lịch sử hình thành:
Thường Tín đã có mặt trên bản đồ Việt Nam kể từ buổi đầu dựng nước. Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí thì Thường Tín vốn là một vùng đất thuộc quận Giao Chỉ vào thời Bắc thuộc. Đối với các triều đại phong kiến độc lập, tự trị như Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý Trần, Thường Tín là châu Thượng Phúc. Sau này đến thời Hậu Lê (1428 – 1527), phủ Thường Tín gồm 3 huyện: Thanh Đàm (hay còn gọi là Thanh Trì), Phù Vân (hay còn gọi là Phú Xuyên) và Thượng Phúc (hay còn gọi là Thường Tín ngày nay), thuộc Trấn Sơn Nam.
Những năm đầu của thế kỷ 19, theo sử sách Phan Huy Chú, phủ Thường Tín nằm ở phía Bắc Sơn Nam, các huyện đều chạy dọc theo đường quan lộ, đất rộng bằng phẳng, không có rừng núi, chỉ có dòng sông Tô Lịch bao quanh. Phủ Thường Tín với 3 huyện trên tồn tại cho đến thời nhà Nguyễn.
Ngày 1 tháng 10 năm 1831, vua Minh Mạng thực hiện cuộc cải cách hành chính, phân chia lại lãnh thổ, chia lại địa phận, tách nhập một số phủ huyện, bỏ địa danh hành chính lộ, trấn thành lập 18 tỉnh, trong đó có tỉnh Hà Nội. Huyện Thường Tín được thành lập, trực thuộc tỉnh Hà Nội. Phú Xuyên và Thanh Trì được chia thành hai huyện riêng biệt. Vì thế, ngày 1 tháng 10 năm 1831, huyện Thường Tín được thành lập.
Những năm đầu thế kỷ 20, huyện Thường Tín được đổi tên thành Thường Tín. Thời Pháp thuộc (1884 – 1945), Thường Tín là một phủ thuộc tỉnh Hà Đông. Hơn 100 năm qua, từ đầu thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, huyện Thượng Phúc (Thường Tín) dù được tách, sáp nhập hay đổi tên ở cấp tổng hay cấp phủ cũng không có gì thay đổi. Kể từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Thường Tín là một huyện của tỉnh Hà Đông.
Ngày 21 tháng 4 năm 1965, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra Quyết định số 103-NQ-TVQH, theo đó huyện Thường Tín thuộc tỉnh Hà Tây được thành lập trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây. Lúc bấy giờ? huyện Thường Tín gồm có 32 xã.
Từ ngày 27 tháng 12 năm 1975, theo Nghị quyết về phê chuẩn việc phân vạch lại địa giới thành phố Hà Nội lần thứ 2 của Quốc hội, trong đó, có 4 xã ở phía bắc huyện Thường Tín là: Đại Áng, Liên Ninh, Ngọc Hồi, Tả Thanh Oai được sáp nhập vào huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Huyện Thường Tín còn lại 28 xã.
Ngày 19 tháng 3 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Quyết định số 49/HĐBT thành lập thị trấn Thường Tín trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của các xã Văn Bình, Văn Phú và Hà Hồi.
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VIII đã ban hành Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Chia tỉnh Hà Sơn Bình thành hai tỉnh gọi là Hòa Bình và Hà Tây. Như vậy, huyện Thường Tín trở lại thuộc tỉnh Hà Tây. Huyện Thường Tín có 1 thị trấn và 28 xã được giữ ổn định cho đến nay.
Từ ngày 1 tháng 8 năm 2008, Nghị quyết số số 15/2008/NQ-QH12 của Quốc hội khóa XII về mở rộng địa giới hành chính thủ đô Hà Nội, tăng cường diện tích tự nhiên và dân số toàn tỉnh Hà Tây vào thành phố Hà Nội. Huyện Thường Tín trực thuộc thành phố Hà Nội quản lý.
3. Kinh tế của huyện Thường Tín:
Kinh tế huyện Thường Tín đã chứng kiến những bước tiến đáng kể trong những năm gần đây. Huyện trong thời gian qua tập trung vào quy hoạch và đầu tư xây dựng hạ tầng khung, đặc biệt là các cụm công nghiệp, làng nghề, nhằm thúc đẩy lưu thông hàng hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Qua đó, góp phần tăng nguồn thu ngân sách cho địa phương, tạo việc làm cho người dân. Với 82 làng có nghề, trong đó có 48 làng nghề truyền thống, Thường Tín không chỉ giữ gìn bản sắc văn hóa mà còn tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho hơn 40.000 lao động.
Bên cạnh đó, huyện cũng đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc phát triển kinh tế bền vững, bất chấp những thách thức do dịch Covid-19 gây ra. Sự lãnh đạo quyết liệt và sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị cũng như mỗi người dân đã giúp kinh tế – xã hội của huyện có những khởi sắc đáng tự hào.
Huyện Thường Tín cũng chú trọng đến việc đầu tư cho nông nghiệp, áp dụng khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế và thu nhập cho người dân. Chương trình mỗi xã, phường một sản phẩm (OCOP) được triển khai nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế của địa phương, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh.
Huyện Thường Tín đang trên đà phát triển mạnh mẽ với những bước tiến vững chắc trong việc xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và nông nghiệp. Sự đầu tư vào hạ tầng và sự phát triển của các làng nghề truyền thống đã và đang mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế của huyện, đồng thời cải thiện đời sống của người dân nơi đây.
THAM KHẢO THÊM: