Lô đề là một hình thức dự đoán kết quả dựa trên các con số được quay thưởng trong xổ số kiến thiết và thường được xem là một dạng "chơi số" phổ biến trong cộng đồng. Vậy hành vi đánh lô đề có được coi là đánh bạc không?
Mục lục bài viết
1. Đánh lô đề là gì? Đánh lô đề có bị coi là đánh bạc không?
Đánh lô đề là một hình thức cờ bạc phổ biến, thường diễn ra dưới dạng cá cược dựa trên kết quả xổ số, trong đó người chơi dự đoán các con số cuối cùng của kết quả xổ số hàng ngày để xác định phần thưởng. Dựa vào may rủi, người chơi lô đề đặt cược với hy vọng trúng thưởng nếu số mình chọn trùng với kết quả xổ số. Mặc dù hình thức này được tổ chức phổ biến trong xã hội, lô đề vẫn bị coi là hành vi đánh bạc trái phép và được xem là vi phạm pháp luật.
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, đánh bạc trái phép bao gồm nhiều hình thức khác nhau như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, đá gà, tài xỉu, cũng như nhiều hình thức cờ bạc khác với mục đích được thua bằng tiền hoặc hiện vật. Đáng chú ý, các hành vi liên quan đến đánh lô đề cũng nằm trong nhóm hành vi đánh bạc trái phép và chịu xử phạt theo quy định pháp luật.
Về chế tài xử lý, theo Điều 321 Văn bản hợp nhất 01/VBHN-VPQH năm 2017, hợp nhất Bộ luật Hình sự hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền hoặc hiện vật với giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng người vi phạm đã từng bị xử phạt hành chính hoặc đã có tiền án về hành vi đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc, thì đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể, khung hình phạt chính cho hành vi đánh bạc trái phép là phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Trong trường hợp nghiêm trọng hơn, như khi đánh bạc có tính chất chuyên nghiệp, với giá trị tiền hoặc hiện vật từ 50.000.000 đồng trở lên, hoặc sử dụng mạng internet và các phương tiện điện tử để thực hiện hành vi này, người phạm tội có thể đối mặt với mức phạt tù từ 03 đến 07 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể chịu phạt bổ sung từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Như vậy, có thể thấy hành vi đánh số đề, khi có giá trị tiền bạc từ 5.000.000 đồng hoặc người vi phạm đã từng bị xử lý hành chính hoặc kết án về hành vi này thì hoàn toàn có khả năng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc. Tùy vào mức độ và tình tiết vi phạm, người vi phạm có thể chịu mức phạt cao nhất lên đến 07 năm tù và phạt bổ sung bằng tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
2. Đánh số đề chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị phạt hành chính bao nhiêu tiền?
Theo quy định tại Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, hành vi đánh bạc trái phép dưới các hình thức khác nhau sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính với các mức phạt cụ thể, tùy thuộc vào tính chất và mức độ vi phạm. Trong đó, đối với hành vi là mua số lô, số đề, mức phạt hành chính từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng sẽ được áp dụng.
Các hành vi phức tạp hơn như đánh bạc trái phép dưới nhiều hình thức phổ biến khác – từ các trò chơi truyền thống như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tam cúc, đến các hình thức đánh bạc hiện đại như trò chơi điện tử hoặc cá cược trong các sự kiện thể thao, vui chơi giải trí – sẽ phải chịu mức phạt từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Các hành vi này được quy định cụ thể tại điểm a, b, và c của khoản 2, Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP để đảm bảo mọi hình thức đánh bạc trái phép đều được kiểm soát chặt chẽ.
Bên cạnh đó, hành vi vi phạm liên quan đến việc cung cấp dịch vụ hoặc hỗ trợ cho hoạt động đánh bạc, như nhận giữ tiền tại các sòng bạc, tổ chức bán số lô đề hay các hành vi che giấu hoặc bảo vệ điểm đánh bạc, có thể bị xử phạt nặng hơn là từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng. Quy định này nhằm ngăn chặn việc tạo điều kiện cho các hoạt động đánh bạc trái phép diễn ra công khai.
Đối với những hành vi tổ chức đánh bạc, chẳng hạn như tụ tập, rủ rê người khác tham gia hoặc cung cấp địa điểm để chứa chấp hoạt động đánh bạc, người vi phạm có thể bị phạt từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Nếu hành vi tổ chức đánh bạc trở nên phức tạp hơn, như trong trường hợp điều hành mạng lưới đánh lô đề, thì mức phạt sẽ được nâng lên đáng kể, từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.
Ngoài các mức phạt chính, Điều 28 còn quy định các hình thức xử phạt bổ sung, bao gồm tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với một số hành vi cụ thể; đình chỉ hoạt động từ 6 đến 12 tháng đối với cơ sở kinh doanh thiếu trách nhiệm để xảy ra hoạt động đánh bạc trong cơ sở mình quản lý; và trục xuất đối với người nước ngoài có hành vi vi phạm.
Ngoài ra, Điều 4 của Nghị định 144/2021/NĐ-CP cũng đưa ra quy định về mức phạt tiền tối đa đối với các tổ chức khi có hành vi vi phạm. Đối với các hành vi liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình, mức phạt tối đa đối với cá nhân là 30.000.000 đồng và đối với tổ chức là 60.000.000 đồng. Đối với vi phạm trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội, mức phạt tối đa đối với cá nhân là 40.000.000 đồng và đối với tổ chức là 80.000.000 đồng. Với lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, mức phạt tối đa với cá nhân là 50.000.000 đồng và đối với tổ chức là 100.000.000 đồng. Trong khi đó, các hành vi liên quan đến tệ nạn xã hội có mức phạt tối đa đối với cá nhân là 75.000.000 đồng và đối với tổ chức là 150.000.000 đồng.
Mức phạt quy định tại Chương II của Nghị định 144/2021/NĐ-CP áp dụng cho hành vi vi phạm của cá nhân; nếu tổ chức thực hiện cùng hành vi, mức phạt sẽ gấp đôi so với cá nhân. Như vậy, với hành vi đánh số đề, cá nhân có thể bị phạt từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng, trong khi tổ chức thực hiện hành vi tương tự sẽ chịu mức phạt từ 400.000 đồng đến 1.000.000 đồng.
Ngoài các mức phạt tiền, người vi phạm còn có thể bị tịch thu toàn bộ tang vật và phương tiện vi phạm để ngăn chặn hoạt động đánh bạc trái phép trong tương lai.
3. Người ghi số đề có thể phải chịu mức phạt tù bao nhiêu năm?
Theo quy định tại Điều 322
Trước hết, đối với những người thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép, nếu hành vi của họ thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 322, người vi phạm sẽ bị áp dụng mức phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc chịu án phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Một số trường hợp cụ thể dẫn đến mức xử phạt này bao gồm:
-
Tổ chức cho từ 10 người trở lên tham gia đánh bạc cùng một lúc với tổng giá trị tiền hoặc hiện vật sử dụng cho hoạt động đánh bạc đạt từ 5.000.000 đồng trở lên, hoặc tổ chức từ hai chiếu bạc trở lên đồng thời với tổng giá trị tiền, hiện vật cũng từ 5.000.000 đồng trở lên.
-
Sử dụng các địa điểm thuộc sở hữu hoặc quyền quản lý của mình để cho từ 10 người tham gia đánh bạc cùng một lúc hoặc tổ chức từ hai chiếu bạc trở lên, với điều kiện tổng giá trị tiền hoặc hiện vật từ 5.000.000 đồng trở lên.
-
Tổng số tiền và hiện vật được sử dụng cho hoạt động đánh bạc trong một lần tổ chức đạt 20.000.000 đồng trở lên.
-
Có bố trí các hoạt động nhằm hỗ trợ hoặc bảo vệ cho hoạt động đánh bạc, chẳng hạn như tổ chức dịch vụ cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc, lắp đặt trang thiết bị hỗ trợ, phân công người canh gác, hoặc sắp xếp phương tiện để tránh bị vây bắt.
-
Đã bị xử phạt hành chính hoặc đã có án về hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (theo quy định tại Điều này hoặc tại Điều 321 của Bộ luật Hình sự), nhưng chưa được xóa án tích và tiếp tục vi phạm.
Tiếp theo, đối với những người có hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc với tính chất nghiêm trọng hơn, khoản 2 của Điều 322 quy định mức phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Các trường hợp vi phạm thuộc nhóm này bao gồm:
-
Có tính chất chuyên nghiệp, tức là người phạm tội thực hiện hành vi nhiều lần, có kế hoạch, tổ chức chặt chẽ, nhằm thu lợi bất chính từ việc tổ chức đánh bạc.
-
Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng trở lên từ hoạt động tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép.
-
Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử khác để thực hiện hành vi phạm tội, nhằm tạo ra các hình thức đánh bạc trực tuyến, tiếp cận người tham gia rộng rãi hơn và tránh các biện pháp kiểm tra, giám sát.
-
Tái phạm nguy hiểm, nghĩa là đã từng bị xử lý hình sự về hành vi này nhưng vẫn tiếp tục vi phạm.
Ngoài các mức phạt chính nêu trên, Điều 322 Bộ luật Hình sự còn quy định thêm về các hình phạt bổ sung. Cụ thể, người phạm tội có thể bị phạt tiền bổ sung từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, nhằm răn đe và ngăn chặn những lợi ích bất chính mà người phạm tội có thể đạt được từ hành vi vi phạm pháp luật.
Như vậy, trong trường hợp hành vi ghi số đề của một cá nhân hoặc tổ chức đáp ứng các yếu tố cấu thành tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc như đã nêu trên, người vi phạm có thể phải chịu mức án phạt tù từ 01 năm đến 10 năm. Đồng thời, người vi phạm có thể phải chịu phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng và có nguy cơ bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản có liên quan đến hoạt động phạm tội. Điều này cho thấy mức độ nghiêm khắc của pháp luật Việt Nam trong việc kiểm soát và xử lý các hành vi tổ chức đánh bạc trái phép, đặc biệt là đối với hành vi tổ chức ghi số đề, một trong những hình thức đánh bạc phổ biến.
THAM KHẢO THÊM: