Thực trạng các quy phạm về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong pháp luật hình sự thực định Việt Nam từ năm 1985 đến nay.
Thực trạng các quy phạm về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong pháp luật hình sự thực định Việt Nam từ năm 1985 đến nay:
Sau năm 1975, đất nước ta có sự chuyển mình lớn về mọi mặt, kéo theo đó là tình hình trật tự xã hội ngày càng trở nên phức tạp, các tệ nạn xã hội ngày càng tinh vi và trở thành vấn đề nóng bỏng. Trước thực trạng trên và để đáp ứng công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, BLHS đầu tiên của nước ta năm 1985 đã ra đời, trong đó quy định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là một chế định riêng tại Điều 16, theo đó tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được hiểu là: “Tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản”. Việc quy định chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong BLHS đã góp phần đưa chế định này lên ngang tầm với ý nghĩa của nó, đồng thời tạo nên sự thống nhất chung về chế định này cả ở phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng.
Trong quá trình áp dụng, BLHS năm 1985, Hội đồng Thẩm phán
Đến lần pháp điển hóa lần thứ hai, nội dung của Điền 16 BLHS năm 1985 được quy định lại tại Điều 19 của BLHS năm 1999 về cơ bản không có thay đổi, bổ sung so với quy định trong BLHS năm 1985 nên hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1988 và Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày 19/4/1989 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về chế định này vẫn còn ý nghĩa. Căn cứ vào các hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, qua thực tiễn xét xử, có thể nghiên cứu chế định này với ý nghĩa là một trường hợp miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm.
Đến lần pháp điển hóa lần thứ ba, BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được quy định lại tại Điều 16 của Bộ luật và không có gì thay đổi so với quy định trong BLHS năm 1999.
Như vậy, BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015, nội dung chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, về cơ bản không có gì khác nhau, chỉ thay đổi điều khoản. Tuy nhiên, qua mỗi lần pháp điển hóa thì khái niệm “tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” ngày càng được thể hiện rõ ràng và đầy đủ hơn.
Qua thực trạng các quy định pháp luật về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội các giai đoạn từ năm 1985 cho thấy:
Mục lục bài viết
1. Những kết quả đạt được:
Thứ nhất, các quy phạm về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong pháp luật hình sự thực định Việt Nam từ năm 1985 đến nay đã góp phần đưa chế định này lên ngang tầm với ý nghĩa của nó, đồng thời tạo sự thống nhất chung về chế định này cả ở phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng.
Thứ hai, trong việc xây dựng và ban hành các quy phạm về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, kỹ thuật lập pháp của Việt Nam đã tiếp cận được kỹ thuật lập pháp trên thế giới, đã tiếp thu chọn lọc những kinh nghiệm, những điểm hợp lý và tiến bộ của luật hình sự các nước trên thế giới.
Thứ ba, việc xây dựng và ban hành các quy phạm về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, nó xác định người có hành vi nguy hiểm có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không chịu tới mức nào?.
Thứ tư, Nội dung quy định tại Điều 16 BLHS năm 1985, Điều 19 BLHS năm 1999 và Điều 16 BLHS năm 2015 về cơ bản là giống nhau chỉ có thay đổi một số câu chữ và dấu. Các quy định tại chế định này đã thể hiện sự khoan hồng nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực lập pháp nói chung và pháp luật hình sự nói riêng, trong việc xác định biện pháp chế tài đối với người phạm tội có hành vi ăn năn, hối cải tự nguyện chấm dứt thực hiện hành vi phạm tội của mình trước khi có hậu quả xảy ra. Đồng thời, cũng nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong việc phòng chống tội phạm, hạn chế hậu quả thiệt hại đến tài sản, tính mạng, lợi ích của xã hội, của Nhà nước do tội phạm gây ra.
Thứ năm, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã có Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 và Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày 19/4/1989 hướng dẫn về việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người thực hành tội phạm và hướng dẫn về việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong các trường hợp có đồng phạm, bước đầu là cơ sở để các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng thực tiễn, đây cũng là cơ sở cho việc cá thể hóa và phân hóa TNHS trong luật hình sự, việc phân hóa TNHS đã góp phần tạo ra đường lối xử lý đối với các trường hợp phạm tội khác nhau, đối với các nhóm chủ thể thực hiện tội phạm khác nhau và là cơ sở để tiến hành cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong áp dụng pháp luật hình sự.
2. Những tồn tại, hạn chế:
Thứ nhất, Thuật ngữ “việc phạm tội” trong mệnh đề “tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” qua cả 3 lần pháp điển hóa (1985, 1999 và 2015) rõ ràng là chưa đạt về mặt kỹ thuật lập pháp, cũng như chưa chặt chẽ về mặt thuật ngữ, chính xác về mặt khoa học và chưa phù hợp với thực tiễn. Vì thuật ngữ “việc phạm tội mới chỉ đề cập đến hành vi tự nguyện chấm dứt tội phạm của 01 loại người phạm tội là “người thực hành” khi người này “phạm tội” (vì động từ “phạm” và danh từ “tội” tạo thành cụm từ “thực hiện tội phạm”). Như vậy, động từ nói lên hành vi đó hoàn toàn khác với động từ biểu thị hành vi của 03 loại người đồng phạm khác (người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức). Bởi lẽ, thực tế là họ không trực tiếp “phạm tội” (tức “thực hiện tội phạm”) mà hành vi của 03 loại người đồng phạm nếu chính xác là họ chỉ “tham gia vào” việc “phạm tội” (tức tham gia vào việc thực hiện tội phạm”).
Thứ hai, tại Điều 16 BLHS năm 2015, các nhà làm luật nước ta mới chỉ quy định chính thức việc áp dụng tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đối với một loại người đồng phạm là người thực hành, mà chưa quy định cụ thể và rõ ràng việc áp dụng nó với ba loại người đồng phạm còn lại là người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức. Tất nhiên, về vấn đề này đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn trong Mục I Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày 19/4/1989 bổ sung việc áp dụng một số quy định của BLHS, song cần được nhà làm luật nước ta ghi nhận chính thức trong BLHS hiện hành. Mặt khác, khi ghi nhận bổ sung nội dung này cần thay cụm từ “việc phạm tội” bằng cụm từ “tội phạm” mới phù hợp với thực tiễn xét xử và bao quát hành vi của tất cả những người đồng phạm, chứ không chỉ riêng bản thân một loại người đồng phạm là người thực hành.
Hiện nay, Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 và Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán vẫn là cơ sở để tham khảo, áp dụng khi gặp trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội mà chưa được quy định chính thức vào BLHS thực định trong khi BLHS năm 1985 đã hết hiệu lực.
Cho đến nay, BLHS năm 2015 vẫn còn giữ nguyên các nhược điểm của BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999 chưa được khắc phục đó là mới chỉ để cập đến vấn đề TNHS của người thực hành mà chưa giải quyết vấn đề TNHS của 03 loại người đồng phạm còn lại (người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức) khi họ tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm. Do vậy, quy định về khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội chưa bao quát hết được các chủ thể thực hiện hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
Thứ ba, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cho thấy, thông thường có 2 dạng thực hiện tội phạm bị xử lý hình sự là: Tội phạm chưa hoàn thành với 2 giai đoạn cụ thể là chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt (thường được gọi chung là hoạt động phạm tội sơ bộ) và tội phạm hoàn thành. Tuy nhiên, mặc dù qua 3 lần pháp điển hóa với 3 BLHS nhưng trong lập pháp hình sự Việt Nam vẫn còn thiếu hoàn toàn các quy phạm chung (tại phần chung) đề cập đến 2 định nghĩa pháp lý rất quan trọng để phân biệt rành mạch và rõ ràng 2 khái niệm tương ứng với 2 dạng tội phạm hoàn toàn khác nhau như: tội phạm chưa hoàn thành (hay còn gọi là hoạt động phạm tội sở bộ) và tội phạm hoàn thành, cũng như xác định TNHS 2 trường hợp này. Việc BLHS chưa quy định rõ và chính thức các giai đoạn thực hiện tội phạm tại phần chung, chưa thể hiện quá trình thực hiện tội phạm có tuần tự, kế tiếp nhau và bao gồm được tất cả các trường hợp cũng liên quan đến việc xác định chính xác giai đoạn phạm tội nào mà người tự ý nửa chừng chấm dứt các hành vi phạm tội để làm căn cứ miễn TNHS.
Thứ tư, tại các kỳ họp của Quốc hội, BLHS năm 1985, 1999 và 2015 đã nhiều lần được đề nghị sửa đổi, bổ sung đối với chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nhưng đến nay vẫn chưa được quan tâm, tiếp thu điều chỉnh.
Gần đây nhất, tại Báo cáo thẩm định số 33/BC-HĐTĐ ngày 10/02/2015 của Hội đồng thẩm định Bộ Tư pháp có nêu ý kiến thẩm định đối với Dự án BLHS năm 2015 (sửa đổi) trong đó có nội dung đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, bổ sung vào Điều 16 của Dự thảo BLHS năm 2015 trường hợp người thực hiện tội phạm có cấu thành vật chất nhưng hậu quả chưa xảy ra và người phạm tội đã tích cực ngăn chặn hậu quả thì cũng được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Tiếp đến, ngày 12/02/2015, Bộ Tư pháp có Báo cáo số 34/BTP-BLHSHC trình Chính phủ về việc tiếp thu và giải trình ý kiến của Hội đồng thẩm định đối với Dự án BLHS năm 2015 (sửa đổi) có nội dung:
“Về vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, Hội đồng thẩm định đề nghị cân nhắc sửa bổ sung trường hợp người phạm tội tuy đã thực hiện hết hành vi phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành) nhưng hậu quả chưa xảy ra và bản thân họ đã chủ động tích cực ngăn chặn có hiệu quả tội phạm xảy ra hoặc hậu quả của tội phạm xảy ra là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
Về vấn đề này, cơ quan chủ trì soạn thảo nhận thấy, việc mở rộng khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội như ý kiến của thành viên Hội đồng là cần thiết, nên đã thể hiện lại là: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản hoặc chủ động ngăn chặn có hiệu quả việc thực hiện tội phạm cũng như hậu quả của hành vi phạm tội””.
Tiếp theo, tại các báo cáo của Đoàn Thư ký kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII ngày 09/6/2015 gửi các Đại biểu Quốc hội (ngày 08/7/2015 gửi Quốc hội) về việc tổng hợp ý kiến của các vị Đại biểu Quốc hội thảo luận ở Tổ và Hội trường về Dự án BLHS (sửa đổi) có nội dung có ý kiến đề nghị quy định cụ thể hơn khái niệm “tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm” tại Điều 16, các quy định phần chung. Tuy nhiên, các nội dung này đã không được Chính phủ và Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét đưa vào BLHS năm 2015. Quá trình, sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015 vẫn giữ nguyên nội dung tại Điều 16 BLHS năm 2015.