Đang thụ lý án treo có được đi khỏi địa phương không? Đang thụ lý án treo muốn rời khỏi địa phương có phải xin phép không? Phải xin phép ai?
Từ xưa đến này pháp luật đóng vai trò rất quan trọng đối với đời sống xã hội. Nhờ có pháp luật mà mọi hoạt đông của con người được điều chỉnh theo một cơ chế nhất định, nhằm đảm bảo cho đời sống con người được tốt hơn và phù hợp hơn. Chính vì vậy, để mỗi cá nhân, tổ chức hoạt động theo đúng quy định, pháp luật nước ta đã áp dụng các chế tài phù hợp với từng tội danh, tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau. Vậy, án treo là gì? Đang thụ lý án treo có được đi khỏi địa phương không?
Căn cứ pháp lý:
Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;- Luật Thi hành án hình sự 2019;
- Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo.
Mục lục bài viết
1. Các điều kiện được hưởng án treo:
Căn cứ theo Điều 65 của Bộ luật hình quy định án treo được áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ và nhân thân của người phạm tội và tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù thì Tòa án sẽ áp dụng biện pháp trên cho các đối tượng phạm tội và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định. Cụ thể các điều kiện sau:
Thứ nhất, bị xử phạt tù không quá 03 năm.
Đây là điều kiện quy định về thời gian chịu phạt tù không quá 03 năm, là điều kiện để toà án ra quyết định cho đối tượng có được hưởng án treo hay không. Người bị áp dụng hình phạt tù không quá 03 năm, không phân biệt tội gì thì có thể được xem xét cho hưởng án treo trừ trường hợp không được hưởng án treo theo quy định.
Thứ hai, có nhân cách tốt
Theo quy định người phạm tội được coi là có nhân thân tốt t nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc. Ví dụ như: chưa từng phạm tội trước đó, là người sống hòa thuận, thân thiệt với mọi người xung quanh, có thành tích học tập tốt hoặc lao động tốt.. tất cả các đặc điểm này thể hiện được bản chất đạo đức của người phạm tội là tốt, hoàn toàn có khả năng cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát của gia đình cũng như chính quyền địa phương.
Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
Thứ ba, có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên.
Để tình tiết giảm nhẹ là được xét làm điều kiện để được hưởng án treo bắt buộc phải có từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ và không có tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 51 của Bộ Luật hình sự.
Hiện nay theo quy định sẽ có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:
- Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
- Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
- Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
- Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
- Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
- Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
- Phạm tội do lạc hậu;
- Người phạm tội là phụ nữ có thai;
- Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
- Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
- Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
- Người phạm tội tự thú;
- Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;
- Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;
- Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
- Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
- Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.
Thứ tư, có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.
Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo.
Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo
Thứ năm, xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù
Người phạm tội sẽ được tòa áp dụng án treo trong trường hợp người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và việc tự cải tạo sẽ do cơ quan, chính quyền địa phương cũng như gia đình của người phạm tội giám sát.
3. Đang thụ lý án treo có được đi khỏi địa phương không?
Theo quy định của pháp luật hiện hành người đang thụ lý án treo sẽ không được phép vắng mặt tại địa phương, cụ thể là nơi cu trú. Việc rời khỏi địa phương được xem như một hành vi vi phạm nguyên tắc của biện pháp này. Bởi lẽ, đối tượng chịu án treo sẽ chịu sự giám sát của chính quyền địa phương cũng như đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo, việc rời khỏi địa phương sẽ làm cơ quan có thẩm quyền không thể thực hiện được nhiệm vụ của mình, gây cản trợ khó khăn trong việc giám sát. Chính vì vậy người ang chấp hành án treo không thể rời khỏi địa phương trừ trường hợp có lý do chính đáng và phải xin phép theo quy định, phải khai báo tạm vắng theo quy định của pháp luật về cư trú.
Cụ thể theo Luật thi hành án hình sự có quy định như sau:
- Thời gian vắng mặt đối tượng chấp hành án treo tại nơi cư trú mỗi lần không quá 60 ngày và tổng số thời gian vắng mặt tại nơi cư trú không được vượt quá một phần ba thời gian thử thách, trừ trường hợp bị bệnh phải điều trị tại cơ sở y tế theo chỉ định của bác sỹ và phải có xác nhận điều trị của cơ sở y tế đó.
- Người được hưởng án treo khi vắng mặt tại nơi cư trú phải có đơn xin phép và được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục; trường hợp không đồng ý thì Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người được hưởng án treo khi đến nơi cư trú mới phải trình báo với Công an cấp xã nơi mình đến tạm trú, lưu trú; hết thời hạn tạm trú, lưu trú phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an cấp xã nơi tạm trú, lưu trú. Trường hợp người được hưởng án treo vi phạm pháp luật, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó đến tạm trú, lưu trú phải
thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục kèm theo tài liệu có liên quan.
Đặc biệt, người đang chấp hành án treo không được xuất cảnh sang nước ngoài vì bất kì lý do gì trong thời gian thử thách.