Hiện nay, quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em luôn luôn được toàn xã hội quan tâm cũng như được pháp luật nước ta bảo vệ hàng đầu. Vậy, phụ nữ đang mang bầu khi ly hôn sẽ được hưởng những quyền lợi gì?
Mục lục bài viết
1. Đang mang bầu, khi ly hôn sẽ được những quyền lợi gì?
Pháp luật hiện nay thông thường được xây dựng dựa trên nguyên tắc nhân đạo và bảo đảm quyền lợi cho phụ nữ, trẻ em (đặc biệt là phụ nữ đang mang thai). Luật hôn nhân gia đình năm 2014 cũng không ngoại lệ. Nhiều người đặt ra câu hỏi: Đang mang bầu, khi ly hôn sẽ được hưởng những quyền lợi gì? Để trả lời được câu hỏi này thì cần phải tìm hiểu quy định của pháp luật về vấn đề ly hôn trong lĩnh vực hôn nhân gia đình. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, phụ nữ đang mang bầu sẽ được hưởng quyền yêu cầu ly hôn so với người chồng. Căn cứ theo quy định tại Điều 51 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về quyền yêu cầu ly hôn, cụ thể như sau:
– Vợ, chồng hoặc cả hai người đều có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án giải quyết ly hôn;
– Cha mẹ hoặc người thân thích khác có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết ly hôn cho một bên vợ hoặc một bên chồng, khi xét thấy vợ chồng bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác dẫn đến hiện tượng không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, đồng thời chi vợ chồng được xem là nạn nhân của bạo lực gia đình, hành vi bạo lực gia đình đó do vợ chồng của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng và sức khỏe, ảnh hưởng đến tinh thần của đối phương;
– Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp người vợ đang mang thai, người vợ đang sinh con, hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Như vậy có thể nói, pháp luật hôn nhân gia đình ghi nhận 02 vợ chồng có quyền yêu cầu ly hôn trong hoàn cảnh thông thường. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt thì người chồng sẽ bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn. Cụ thể trong trường hợp này, người vợ đang mang thai sẽ có quyền yêu cầu ly hôn người chồng, tuy nhiên người chồng sẽ bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn đối với vợ đang mang thai. Hay nói cách khác, việc ly hôn trong thời kỳ mang bầu sẽ do vợ quyết định, nếu như người phụ nữ cảm thấy áp lực về tâm lý thì có quyền yêu cầu ly hôn trong thời điểm nhạy cảm này.
Thứ hai, phụ nữ đang mang bầu có quyền lợi hơn trong việc giành quyền nuôi con khi ly hôn. Căn cứ theo quy định tại Điều 88 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có ghi nhận về việc xác định cha mẹ, cụ thể như sau:
– Đứa trẻ sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc đứa trẻ do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân sẽ được xác định là con chung của hai vợ chồng;
– Đứa trẻ sinh ra trong thời gian 300 ngày được tính kể từ ngày chấm dứt quan hệ hôn nhân sẽ được coi là con do người vợ mang thai trong thời kỳ hôn nhân sinh ra;
– Đứa trẻ sinh ra trước ngày thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cha mẹ thừa nhận là con chung, thì sẽ được xác định là con chung của vợ chồng;
– Trong trường hợp cha mẹ không thừa nhận con cái thì phải có chứng cứ chứng minh và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án xác nhận.
Như vậy có thể nói, người phụ nữ đang mang thai trong thời kỳ hôn nhân khi ly hôn thì đứa trẻ đó vẫn sẽ được xác định là con chung của hai vợ chồng khi đứa trẻ được sinh ra.
Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có ghi nhận như sau:
– Sau khi ly hôn thì cha mẹ vẫn có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc trông nom và chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con cái, đặc biệt là đối với những người con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc người con không có khả năng lao động và cũng không có tài sản để tự nuôi sống chính bản thân mình, phù hợp với quy định của Luật hôn nhân gia đình và Bộ luật dân sự cùng với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan;
– Vợ chồng có quyền thỏa thuận với nhau về người trực tiếp nuôi con, có quyền thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với con cái sau khi ly hôn, trong trường hợp không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu tòa án ra quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của đứa trẻ, nếu như đứa trẻ từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con cái;
– Đối với người con được xác định dưới 36 tháng tuổi theo quy định của pháp luật thì sẽ được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, chưa trường hợp người mẹ không có đủ điều kiện để chăm sóc và nuôi dưỡng con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác dựa trên lợi ích của con.
Như vậy có thể nói, người vợ mang thai khi ly hôn sẽ tự do thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con với chồng. Người không trực tiếp nuôi con vẫn sẽ có quyền nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên. Trong trường hợp hai vợ chồng có thể thỏa thuận được thì: Quyền nuôi đứa trẻ sắp sinh xét đương nhiên thuộc về người vợ, chưa trường hợp người vợ không đủ điều kiện để chăm nom và giáo dục con.
Trên cơ sở pháp luật, trên đây là toàn bộ quyền lợi của người phụ nữ đang mang bầu khi ly hôn, họ hoàn toàn có quyền yêu cầu ly hôn cũng như có quyền nuôi con sau khi ly hôn. Tuy nhiên cần phải có một bài góp ý đối với phụ nữ, nếu như cuộc hôn nhân chưa đến mức trầm trọng thì hãy nên cố gắng để giải quyết các mâu thuẫn và xung đột, dung hòa ổn định cuộc sống gia đình để có thể cứu vãn cuộc hôn nhân đó. Vì về mặt tình cảm, thì sau khi đứa trẻ được sinh ra, nó sẽ không được nhận tình cảm đầy đủ của cả cha và cả mẹ. Vì vậy thời điểm đang mang thai là một thời điểm nhạy cảm, hy vọng rằng các quý khách hàng sẽ có thể suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi đưa ra quyết định này để tránh những hệ lụy đáng tiếc.
2. Vợ đang mang bầu, chồng có quyền ly hôn không?
Có thể nói, ly hôn được xem là quyết định cuối cùng bao nhiêu cặp vợ chồng bắt buộc phải lựa chọn để giải quyết mâu thuẫn và bất đồng trong đời sống hôn nhân. Căn cứ theo quy định tại khoản 14 Điều 3 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 thì ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo quyết định hoặc bản án có hiệu lực pháp luật của tòa án. Tuy nhiên trên thực tế, không phải trong mọi trường hợp thì người chồng đều có quyền ly hôn đối với người vợ. Bởi lẽ căn cứ theo quy định tại Điều 51 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về việc hạn chế quyền yêu cầu ly hôn trong một số trường hợp sau:
– Vợ, chồng hoặc cả hai người đều có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án giải quyết ly hôn;
– Cha mẹ hoặc người thân thích khác có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết ly hôn cho một bên vợ hoặc một bên chồng, khi xét thấy vợ chồng bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác dẫn đến hiện tượng không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, đồng thời chi vợ chồng được xem là nạn nhân của bạo lực gia đình, hành vi bạo lực gia đình đó do vợ chồng của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng và sức khỏe, ảnh hưởng đến tinh thần của đối phương;
– Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp người vợ đang mang thai, người vợ đang sinh con, hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Như vậy có thể nói, khi người vợ đang mang thai thì chồng không được quyền yêu cầu ly hôn. Tuy nhiên người vợ hoàn toàn có quyền làm đơn yêu cầu ly hôn tại tòa án theo phân tích ở trên. Như vậy, chỉ có vợ chồng và chế quyền yêu cầu ly hôn nếu người vợ đang mang thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Quy định này là phù hợp xuất phát từ mục đích nhân đạo và bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
3. Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau ly hôn khi vợ mang thai:
Căn cứ theo quy định tại Luật hôn nhân gia đình năm 2014 thì cấp dưỡng được coi là nghĩa vụ của một cá nhân đóng góp tiền hoặc tài sản phù hợp với quy định của pháp luật cung cấp cho quá trình sinh hoạt của người không chung sống với mình tuy nhiên có mối quan hệ hôn nhân hoặc huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người được cấp dưỡng được xác định là người chưa thành niên, người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi chính bản thân mình, hoặc người gặp khó khăn và rơi vào tình trạng túng thiếu. Căn cứ theo quy định tại Điều 82 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 thì có thể thấy, sau khi ly hôn thì người không trực tiếp nuôi con sẽ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Có thể xác định nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn sẽ thuộc về người không trực tiếp nuôi, hoạt động cấp dưỡng này sẽ được kéo dài đến khi người con đã thành niên và có khả năng lao động. Căn cứ theo quy định tại Điều 116 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 thì mức cấp dưỡng sẽ do hai bên vợ/chồng thỏa thuận, mức cấp dưỡng sẽ được xác định phụ thuộc vào thu nhập và khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Tuy nhiên nếu các bên không tự thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu tòa án giải quyết và xác định mức cấp dưỡng sao cho hợp lý. Mức cấp dưỡng này cũng hoàn toàn có thể thay đổi do thỏa thuận của các bên hoặc yêu cầu tòa án giải quyết khi có căn cứ cho rằng mức cấp dưỡng không còn phù hợp với người có nghĩa vụ.
Vì vậy, khi ly hôn với người vợ mang thai, thì bố của đứa trẻ sẽ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, mức cấp dưỡng như thế nào sẽ do hai bên tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu tòa án giải quyết.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
– Bộ luật Dân sự năm 2015.