Trong tư pháp quốc tế, việc áp dụng các quy phạm xung đột là vấn đề rất được quan tâm. Vậy theo đó, dẫn chiếu ngược là gì? Dẫn chiếu quy phạm xung đột là gì?
Mục lục bài viết
1. Dẫn chiếu ngược là gì?
Dẫn chiếu ngược được hiểu là trường hợp pháp luật của một nước do quy phạm xung đột dẫn chiếu đến lại dẫn chiếu trở lại pháp luật của nước ban đầu. Ví dụ, cơ quan có thẩm quyền của nước A áp dụng quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài (nước B), nhưng pháp luật nước B lại quy định vấn đề phải được giải quyết theo pháp luật nước A hoặc được giải quyết theo pháp luật của một nước thứ ba.
Ví dụ: Ông D, quốc tịch nước Anh, cư trú tại Việt Nam và xin kết hôn với chị C quốc tịch Việt Nam. Theo quy định tại Điều 126 Luật hôn nhân và gia đình 2014, trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn, hay nói cách khác nguyên tắc chọn luật của Việt Nam trong vấn đề này là hệ thuộc luật quốc tịch. Vậy điều kiện kết hôn của ông D do pháp luật nước Anh điều chỉnh. Nhưng pháp luật nước Anh, vấn đề này được điều chỉnh bởi pháp luật nơi cư trú (hệ thuộc luật nơi cư trú). Do vậy, điều kiện đăng kí kết hôn của ông D được pháp luật nước Anh dẫn ngược trở lại pháp luật Việt Nam.
2. Dẫn chiếu quy phạm xung đột là gì?
Xung đột pháp luật được hiểu là một hiện tượng mà trong đó có hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (quan hệ tư pháp quốc tế). Thực tế có thể là quy phạm xung đột thông thường (do các quốc gia tự xây dựng) hoặc quy phạm xung đột thống nhất (các quốc gia thoả thuận xây dựng nên trong các điều ước quốc tế).
Về quy phạm xung đột, cơ cấu thường sẽ có hai phần là phần phạm vi và phần hệ thuộc do tính đặc thù của nó là loại quy phạm chỉ nhằm dẫn chiếu luật. Theo đó, phạm vi là phần chỉ ra quy phạm xung đột nào được áp dụng cho loại quan hệ dân sự theo nghĩa rộng nào. Còn hệ thuộc được hiểu là nhằm để chỉ ra hệ thống pháp luật nước nào được áp dụng để điều chỉnh quan hệ đã được xác định trong phần phạm vi. Để áp dụng quy phạm xung đột một cách đúng đắn và đầy đủ.
3. Các nguyên nhân và hệ quả của việc dẫn chiếu:
3.1. Nguyên nhân của việc dẫn chiếu:
Thứ nhất, nguyên nhân dẫn đến việc dẫn chiếu này chính là việc giải thích các hệ thuộc luật của các nước có thể rất khác nhau, từ đó nảy sinh đến vấn đề là hệ thống pháp lý sẽ không thống nhất, khi đó vấn đề xung đột xảy ra. Xung đột này có thể là xung đột tích cực hoặc xung đột tiêu cực.
Thứ hai, quy phạm xung đột có hai bộ phận cấu thành: phần phạm vi và phần hệ thuộc. Việc dẫn chiếu này cũng có thể xuất phát từ vấn đề phần hệ thuộc khác nhau hay là do có sự quy định khác nhau trong các quy phạm xung đột của các nước về nguyên tắc chọn luật áp dụng cho cùng một vấn đề pháp lý.
3.2. Hệ quả của việc dẫn chiếu:
Trong Tư pháp quốc tế các nước, thực tế có một số nước như Kê-béc (Canada), Ý (trước ngày 31 tháng 5 năm 1995), Bắc Âu, Hy Lạp (BLDS năm 1940), Hà Lan, Brazin (BLDS năm 1942), Ai Cập (BLDS năm 1948), Siry (BLDS năm 1949) v.v…; song một số nước khác lại chấp nhận dẫn chiếu như Pháp, Đức (BLDS năm 1896), Anh, Bỉ, Nhật Bản (BLDS năm 1898), Thụy Điển,… không chấp nhận việc dẫn chiếu.
Do đó, trong quá trình xảy ra hiện tượng dẫn chiếu sẽ xét đến các trường hợp như:
– Pháp luật của quốc gia không chấp nhận dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba, có nghĩa là quốc gia đó cho rằng việc dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài ở đây phải là sự dẫn chiếu đến quy phạm pháp luật thực chất của nước ngoài. Trong trường hợp này, về nguyên tắc pháp luật được áp dụng ở đây sẽ là pháp luật của nước mà được pháp luật quốc gia này dẫn chiếu đến, và áp dụng các quy phạm pháp luật thực chất của nước đó để giải quyết quan hệ xã hội phát sinh
– Pháp luật của quốc gia chấp nhận dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba, có nghĩa là quốc gia đó theo quan điểm thứ hai, cho rằng sự dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài phải là sự dẫn chiếu đến toàn bộ hệ thống pháp luật của nước đó (kể cả quy phạm luật thực chất, cả luật xung đột). Trong trường hợp này, về nguyên tắc chung, pháp luật sẽ áp dụng là pháp luật của chính quốc gia mà được pháp luật của quốc gia kia dẫn chiếu ngược trở lại hoặc pháp luật của nước thứ ba.
– Lưu ý: với những quốc gia có ký kết với nhau các hiệp định song phương, cụ thể là các hiệp định tương trợ tư pháp thì vấn đề dẫn chiếu ngược sẽ không tồn tại.
4. Việc áp dụng nguyên tắc dẫn chiếu tại Việt Nam:
Thực tế tại Việt Nam, nguyên tắc dẫn chiếu ngược được áp dụng như sau:
– Pháp luật được dẫn chiếu đến bao gồm quy định về xác định pháp luật áp dụng và quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự.
– Nếu như dẫn chiếu đến pháp luật Việt Nam thì quy định của pháp luật Việt Nam về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự được áp dụng.
– Nếu như dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba thì quy định của pháp luật nước thứ ba về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự được áp dụng.
– Với những nước có nhiều hệ thống pháp luật được dẫn chiếu đến thì khi đó, pháp luật áp dụng được xác định theo nguyên tắc do pháp luật nước đó quy định.
– Không được áp dụng khi pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu đến trong các trường hợp bao gồm:
+ Việc áp dụng pháp luật nước ngoài dẫn đến hậu quả trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
+ Mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng nhưng nội dung của pháp luật nước ngoài không xác định được.
Trường hợp xác định pháp luật đối với người không quốc tịch hay người có nhiều quốc tịch được quy định như sau:
– Pháp luật áp dụng là pháp luật của nước nơi người đó cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nếu thuộc trường hợp pháp luật được dẫn chiếu đến là pháp luật của nước mà cá nhân có quốc tịch nhưng cá nhân đó là người không quốc tịch.
– Pháp luật áp dụng là pháp luật của nước nơi người nước ngoài có mối liên hệ gắn bó nhất khi người đó có nhiều nơi cư trú hoặc không xác định được nơi cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
– Pháp luật áp dụng là pháp luật của nước nơi người nước ngoài có quốc tịch và cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài khi pháp luật được dẫn chiếu đến là pháp luật của nước mà cá nhân có quốc tịch nhưng cá nhân đó là người có nhiều quốc tịch.
– Pháp luật áp dụng là pháp luật của nước mà người nước ngoài có quốc tịch và có mối liên hệ gắn bó nhất nếu như người đó có nhiều nơi cư trú hoặc không xác định được nơi cư trú hoặc nơi cư trú và nơi có quốc tịch khác nhau vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
– Pháp luật được áp dụng là pháp luật Việt Nam nếu như thuộc trường hợp pháp luật được dẫn chiếu đến là pháp luật của nước mà cá nhân có quốc tịch nhưng cá nhân đó là người có nhiều quốc tịch.
Ngoài ra, vấn đề lựa chọn pháp luật áp dụng để điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Ví dụ về lĩnh vực hôn nhân và gia đình có quy định về việc áp dụng pháp luật đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, cụ thể:
Các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.
Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Trong trường hợp Luật Hôn nhân và gia đình hay các văn bản pháp luật khác của Việt Nam có dẫn chiếu về việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật nước ngoài được áp dụng khi việc áp dụng đó không trái với những nguyên tắc cơ bản của luật định.
CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG BÀI VIẾT:
Bộ luật dân sự 2015.