Trong nhiều câu niệm hằng ngày, vẫn thường xuất hiện Đại Thế Chí Bồ Tát. Tuy vậy, nhưng cũng có rất nhiều người không biết Đại Thế Chí Bồ Tát là ai? Ý nghĩa và sự tích cuộc đời của Ngài? Để hiểu rõ hơn về vị Bồ Tát này, hãy tham khảo ngay bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Đại Thế Chí Bồ Tát là ai?
Đại Thế Chí Bồ Tát còn được gọi với những tên gọi khác là: Đắc Đại Thế Bồ tát, Vô Lượng Quang Bồ tát, Đại Tinh Tấn Bồ tát, Linh Cát Bồ tát,…hoặc được gọi tắt với cái tên là Thế Chí. Trong Phật giáo Đại Thừa, Đại Thế Chí Bồ Tát là một trong những vị Bồ Tát cao cấp và được người đời vô cùng kính trọng.
Tên của Đại Thế Chí Bồ Tát có ý nghĩa thể hiện cho sức mạnh vĩ đại xuất hiện. Sức mạnh vĩ đại đó là ánh sáng của trí tuệ soi sáng khắp 10 phương. Đại Thế Chí Bồ Tát theo Phật giáo Trung Hoa có tên gọi là Zhi Pu Sa và là một phần của Tam Thánh Phật: Quan Thế Âm Bồ Tát, Đức Phật A Di Đà và Đại Thế Chí Bồ Tát. Đại Thế Chí Bồ Tát theo Phật Giáo Tây Tạng có tên gọi là Bồ Tát Kim Cương Thủ và Ngài được coi là thần bảo hộ của Đức Phật Thích Ca.
Đại Thế Chí Bồ Tát là một trong các vị Bồ Tát từng xuất hiện từ lâu đời và những vị này mang cho mình nhiều quyền lực tối cao nhất. Trong trường phái Tịnh Độ, Đại Thế Chí Bồ Tát đóng vai trò vô cùng quan trọng đó là Ngài dẫn dắt cho chúng sinh về với nơi tịnh độ Tây phương cực lạc.
2. Sự tích Đại Thế Chí Bồ Tát:
Ni Ma cũng là tên gọi khác của Đại Thế Chí Bồ Tát, tiền thân là thái tử thứ hai của đời vua Vô Chánh Niệm và Ngài chính là em của thái tử Bất Huyền. Sau này vua Vô Chánh Niệm trở thành Phật A Di Đà và thái tử Bất Huyền trở thành Quan Thế Âm Bồ Tát.
Lúc đó, Ni Ma đã được một vị đại thần tên là Bảo Hải khuyên nhủ cầu đặng Nhứt Thiết Trí vì chúng sinh và mang công đức đó để hồi hướng về với đạo Vô Thượng Bồ Đề. Khi ấy, cái tâm nguyện mãi được đặng viện mãi mà sự phước báu sẽ chẳng khi nào là tận cùng. Sau khi nghe những lời khuyên nhủ của Bảo Hải, Ni Ma đã chú tâm vào các hạnh tu đó là:
Ba nghiệp của thân
– Không sát hại chúng sinh.
– Không trộm cắp của người đời.
– Không tà dâm.
Bốn nghiệp của miệng
– Không nói láo xược.
– Không nói những lời thêu dệt.
– Không nói những lời hai chiều.
– Không nói những lời thô tục,độc ác.
Ba nghiệp của ý
– Không tham nhiễm danh lợi và sắc dục.
– Không hờn giận oán cừu.
– Không si mê ám muội.
Đại Thế Chí Bồ Tát đã sử dụng sức mạnh vĩ đại đó là ánh sáng của trí tuệ để chiếu sáng muôn phương và Ngài hiến cho chúng sinh được giải thoát trong ba đường ác. Bên cạnh đó, Đại Thế Chí Bồ Tát tiếp tục tu Bồ Tát Đạo và làm việc Phật sự, dạy bảo cho người đời, với các loài hữu tình Ngài làm những việc có ích mục đích là để cầu mau đặng hoàn mãn các món công hạnh mà Đại Thế Chí Bồ Tát đã thệ nguyện.
Ni Ma sẽ thành đạo khi đức Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai diệt độ và ngài sẽ tiếp tục được kế ngôi của Phật để chánh pháp của ngài sẽ được truyền đi và hóa độ cho chúng sinh.
Sau khi nghe được những lời này của Ni Ma thì Phật Bảo Tạng đã thọ ký rằng: “Theo như lòng của người mong muốn có một thế giới rộng lớn và trang nghiêm thì qua đời vị lai, sau khi trải qua hằng hà sa kiếp người sẽ có được những tâm nguyện ấy. Với tâm nguyện lớn như vậy người sẽ được đặt danh hiệu là Đắc Đại Thế hay còn gọi là Đại Thế Chí Bồ Tát. Sau khi Phất Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai nhập niết bàn thì người sẽ được bổ làm Phật và đặt danh hiệu là Thiện Trụ Trân Bảo Như Lai, kế tiếp ra đời để độ hóa mọi chúng sanh.”
Và sau khi nghe được những lời này của Phật Bảo Tạng thì Ni Ma cũng đã đáp lại rằng: “Thưa Bạch Đức Thế Tôn, nếu như tâm nguyện của tôi có thể trở thành, tôi xin kính ngài hãy làm cho thế gian đều vang động và ở giữa hư không hãy làm cho xuất hiện hoa thơm và cầu cho đức Phật ở mười Phương cũng thọ ký cho tôi như vậy.”
Khi vừa mới dứt lời, thái tử Ni Ma cúi lạy Phật thì mọi vạn vật bắt đầu rung chuyển dữ dội và âm thanh vang rền cả trời đất, những loài hoa tươi đẹp và thơm tho cũng đột nhiên rơi xuống như những hạt mưa trút xuống trong hư không. Lúc ấy, Đức Phật mười phương đã thọ ký: “Tại cõi Tán đề lam, có người đệ tử của Phật Bảo Tạng Như Lai tên Ni Ma, con thứ hai của đời vua Vô Tránh Niệm, đã có phát tâm cúng dường Phật và đại chúng qua 3 tháng, đem công đức ấy hồi hướng về đạo Vô Thường Bồ Đề và nguyện đặng ở cõi thế giới trang nghiêm”.
Ni Ma nhận được những thọ ký của Đức Phật mười phương, cảm thấy vui mừng vô cùng và điều đó giúp ngài ngày càng chăm chỉ tu tập hơn về các điều đã thệ nguyện trước đó. Kể từ lúc đấy, Ni Ma đã đầu thai thành thân khác ở đời khác và cho dù ở bất kì kiếp nào Ni Ma vẫn giữ được 4 nguyện, sự quyết chí trong tu hành, cùng vơi việc học đạo Đại Thừa, và làm hạnh Bồ Tát đồng thời không ngừng mở mang trí huệ cho chúng sanh. Bên cạnh đó, chính là làm những điều nhiễu ích để dìu dắt cho các loài thoát ra khỏi được u mê và bước lên con đường giác ngộ.
3. Hình tượng của Đại Thế Chí Bồ Tát:
Bên phải của vị đức phật A Di Đà trong giới Phật pháp là vị trí của Đại Thế Chí Bồ Tát. Ngài đeo chuỗi anh lạc và một bó hoa sen màu xanh được cầm bên tay phải, hoa sen màu xanh chính là loài hoa biểu tượng cho sự thuần khiết và thanh tịnh.
Từ bi và trí tuệ chính là 2 yếu tố quan trong phải có được ở mỗi vị Phật. Và sẽ không thể trở thành phật nếu như thiếu mất một trong hai yếu tố này. Cả hai điều này đã được Phật Đại Thế Chí Bồ Tát dùng để cứu vớt chúng sinh thoát khỏi những phiền muộn và sau đó trở về với cõi Tịnh Độ.
Thân hình của Ngài Bồ Tát theo kinh Quán Vô Lượng Thọ là thân cao tám mươi ức na do tha do tuần, Ngài có làn da màu vàng tử Kim. Có 500 hoa báu được đặt bên trong thiên quan của Bồ Tát, trên mỗi một bông hoa báu có 500 đài báu và quốc độ tịnh diệu của mười phương Chư Phật được hiện lên bên trong mỗi đài báu ấy. Khác hoàn toàn so với tượng Quan Thế Âm Bồ Tát, thì nhục kế của Ngài như Bát đầu ma và có 1 bình báu ở giữa nhục kế.
Trong hiện đồ mạn đồ la thai tạng giới của Ngài Mật tông, trong viên Quan Âm thì ngài là vị thứ hai ở bên phương trên. Ngài ngồi trên bông hoa sen màu đỏ, thân có màu trắng và ông hoa sen mới nở được cầm trên tay. Tay phải của Ngài được đặt trước ngực và co 3 ngón giữa. Mật hiệu là Trì luân kim cương và đồng thời hình hoa sen mới nở chính là hình Tam muội.
4. Hạnh nguyện của Đại Thế Chí Bồ Tát:
Đối với Đại Thế Chí Bồ Tát thì hạnh nguyện của Ngài chính là thuộc về tâm thức và các hạnh tu tâm dưỡng tính, để được giải thoát. Theo Bồ Tát Đại Thế Chí thì khi tu trước tiên phải tu thiền định để cho trí tuệ được đạt và đồng thời rời xa được những ái dục để giúp bản thân được giác ngộ và giải thoát. Sau đó chuyển sang phát đại nguyện độ sau khi tu thiền định xong để cho tất cả chúng sinh được an trụ trong giới chư Phật.
Ngài có tâm, chân thực và rất bình đẳng. Ngài không dụng tâm cố ý cho người đời thấy được để tán dương và khen ngợi Ngài. Ngoài ra Ngài cũng không dựa vào những công đức mà mình làm ra, không chấp tướng hay hơn thua và cũng không mưa cầu danh vọng. Và Ngài không niệm đến bất kỳ điều gì, cũng sẽ không thấy có chứng, có độ, có đắc.
Ở trong đạo Phật thì hạnh nguyện của Ngài Đại Thế Chí Bồ Tát chính là một sự tinh khiết. Đối với chúng sinh điều nó đã mang tới rất nhiều lợi ích và đó cũng là pháp tu mang biểu tượng cho những nỗ lực kiên trì, dũng mãnh và chân chính để bước đi trên con đường giác ngộ.
5. Ý nghĩa của việc thờ phụng Đại Thế Chí Bồ Tát:
Nếu phật tử đi theo Tịnh Độ Tông thì chắc chắn không thể thiếu được hình tượng Tây Phương Tam Thánh trên bàn thờ đó là Đức Phật A Di Đà, Đại Thế Chí Bồ Tát và Quan Thế Âm Bồ Tát.
Trong đó, đại diện cho sức mạnh trí tuệ chính là Đại Thế Chí Bồ Tát. Vì vậy, việc thờ cúng vị Bồ Tát này có ý nghĩa là giúp cho gia chủ trong những lúc quyết định làn việc gì đó đều có sự sáng suốt, cũng như không bị mù quáng và bị che mắt bởi cám giỗ. Bên cạnh đó Ngài sẽ luôn soi sáng và dẫn dắt để giúp ta đi đúng đường, đúng hướng.