Trong những năm gần đây, hoạt động thương mại ngày càng phát triển mạnh mẽ với sự tham gia đông đảo của các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và các tổ chức, cá nhân tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Cùng tìm hiểu quy định về đại diện cho thương nhân theo Luật thương mại.
Khái niệm đại diện cho thương nhân là gì?
1. Quy định của pháp luật về đại diện cho thương nhân:
Ta có thể hiểu như sau, đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận ủy nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại diện.
Điều 134
“1. Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
2. Cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó.
3. Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện.”
Bên cạnh đó,
“Đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận ủy nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại diện.
Trong trường hợp thương nhân cử người của mình để làm đại diện cho mình thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự.”
Căn cứ theo các quy định nêu trên thì đại diện cho thương nhân được chia làm hai trường hợp cụ thể là:
– Trường hợp thứ nhất: hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại.
Về đặc điểm thì có thể xét trên các phương diện như sau:
+ Chủ thể: Quan hệ đại diện cho thương nhân phát sinh giữa bên đại diện và bên giao đại diện. Cả 2 bên đều phải là thương nhân.
+ Bản chất: Bên giao đại diện sẽ ủy quyền cho bên đại diện thay mặt, nhân danh bên giao đại diện thực hiện các hoạt động thương mại. Khi bên đại diện giao dịch với bên thứ 3, thì về mặt pháp lí các hành vi do người này thực hiện được xem như người ủy quyền (người giao đại diện thực hiện). Bên giao đại diện phải chịu trách nhiệm về các cam kết do bên đại diện thực hiện trong phạm vi ủy quyền.
+ Nội dung của hoạt động đại diện rất đa dạng: có thể thỏa thuận thực hiện một phần hoặc toàn bộ các hoạt động thương mại thuộc phạm vi hoạt động của bên giao đại diện, nó có thể bao gồm các hoạt động như tìm kiếm cơ hội kinh doanh cho bên giao đại diện, thay mặt bên giao đại diện để thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường, lựa chọn đối tác, đàm phán, giao kết hợp đồng với bên thứ 3…)
+ Hình thức pháp lí: thông qua hợp đồng đại diện cho thương nhân (phải được lập thành văn bản hoặc các hình thức có giá trị tương đương)
+ Thời hạn đại diện cho thương nhân: Thời hạn đại diện sẽ do các bên thỏa thuận; trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, thời hạn đại diện chấm dứt khi bên giao đại diện thông báo cho bên đại diện về việc chấm dứt hợp đồng đại diện hoặc bên đại diện thông báo cho bên giao đại diện về việc chấm dứt hợp đồng.
+ Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, nếu bên giao đại diện đơn phương thông báo chấm dứt hợp đồng đại diện theo quy định tại khoản 2 Điều 144
+ Trường hợp thời hạn đại diện chấm dứt theo quy định tại khoản 2 Điều 144
+ Bên đại diện sẽ được hưởng thù lao đối với hợp đồng được giao kết trong phạm vi đại diện. Quyền được hưởng thù lao sẽ phát sinh từ thời điểm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng đại diện. Trường hợp các bên không thỏa thuận thì mức thù lao sẽ được xác định theo quy định tại Điều 86
+ Trong quá trình đại diện, bên đại diện có quyền yêu cầu được thanh toán các khoản chi phí hợp lý để thực hiện hoạt động đại diện trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
+ Ngoài ra, Luật thương mại năm 2005 còn có các quy định về nghĩa vụ của bên đại diện và bên giao đại diện tại Điều 145, Điều 146 Luật thương mại năm 2005 trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
– Trường hợp thứ hai: cá nhân đại diện cho tổ chức là thương nhân.
Đối với trường hợp cá nhân đại diện cho tổ chức là thương nhân thì sẽ theo quy định của
2. Đặc điểm của việc đại diện cho thương nhân:
Việc đại diện cho thương nhân có những đặc điểm cụ thể và cơ bản sau đây:
– Đặc điểm thứ nhất: Quan hệ đại diện cho thương nhân là quan hệ giữa bên đại diên và bên giao đại diện.
Trong quan hệ đại diện cho thương nhân, cả bên đại diện cũng như bên giao đại diện đều phải là thương nhân quy định cụ thể tại Điều 141 Luật thương mại 2005. Bên giao đại diện có quyền thực hiện những hoạt động thương mại nhất định (như mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại) nhưng lại muốn trao quyền đó cho thương nhân khác thay mình thực hiện hoạt động thương mại. Bên đại diện cho thương nhân phải là thương nhân thực hiện hoạt động đại diện một cách chuyên nghiệp. Trong quan hệ đại diện cho thương nhân, giữa bên đại diện và bên giao đại diện có sự ràng buộc khá chặt chẽ và phải được đảm bảo quyền và nghĩa vụ theo các quy định của pháp luật.
– Đặc điểm thứ hai: Nội dung của hoạt động đại diện cho thương nhân do các bên tham gia quan hệ thỏa thuận.
Các bên có thể thỏa thuận về việc bên đại diện được thực hiện một phần hoặc toàn bộ các hoạt động thương mại thuộc phạm vi hoạt động của bên giao đại diện.
Cùng một lúc, bên đại diện có thể tiến hành hoạt động đại diện cho thương nhân cho nhiều thương nhân khác nhau nhưng không được nhân danh bên được đại diện để xác lập giao dịch với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
– Đặc điểm thứ ba: Quan hệ đại diện cho thương nhân phát sinh trên cơ sở hợp đồng đại diện cho thương nhân.
Hợp đồng đại diện cho thương nhân là một dạng riêng của
Hợp đồng đại diện cho thương nhân được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương (quy định cụ thể tại Điều 142 Luật thương mại 2005).
3. Hợp đồng đại diện cho thương nhân:
– Hợp đồng đại diện cho thương nhân là một trong những cơ sở làm phát sinh quan hệ đại diện giữa các thương nhân với nhau.
– Theo Điều 142 Luật thương mại 2005, Hợp đồng đại diện cho thương nhân phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Trong đó, các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm: điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
– Phạm vi đại diện: Các bên có thể tự thỏa thuận về việc bên đại diện được thực hiện một phần hoặc toàn bộ hoạt động thương mại thuộc phạm vi hoạt động của bên giao đại diện trong nội dung hợp đồng đại diện cho thương nhân được ký kết giữa bên đại diện và bên giao đại diện miễn sao không vi phạm các quy định của pháp luật.
– Nội dung của hợp đồng đại diện cho thương nhân: Để đảm bảo quyền tự do của các bên khi giao kết hợp đồng đại diện, Luật Thương mại năm 2005 đã bãi bỏ quy định về nội dung chủ yếu của hợp đồng đại diện cho thương nhân nhưng xuất phát từ bản chất của quan hệ đại diện cho thương nhân và để hạn chế tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng đại diện cho thương nhân, khi giao kết hợp đồng đại diện này các bên có thể thỏa thuận về những điều khoản sau đây:
+ Phạm vi đại diện.
+ Thời hạn đại diện.
+ Mức thù lao trả cho bên đại diện.
+ Thời điểm phát sinh quyền được hưởng thù lao.
+ Thời gian và phương thức thanh toán tiền thù lao cho việc đại diện.
+ Quyền và nghĩa vụ của các bên.
+ Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
+ Hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng.
4. Chấm dứt quan hệ đại diện cho thương nhân:
Cũng như bất cứ các quan hệ pháp luật dân sự nào, đại diện cho thương nhân không thể tồn tại mãi mãi. Đại diện cho thương nhân sẽ chấm dứt khi xảy ra những điều kiện pháp lý nhất định theo quy định pháp luật. Khi chấm dứt, mọi hậu quả pháp lý phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện đều không có giá trị pháp lý đối với người được đại diện.
Theo Điều 144 Luật thương mại 2005, quan hệ đại diện giữa bên đại diện và bên được đại diện chấm dứt khi xảy ra một trong các trường hợp sau đây:
– Thứ nhất, hết thời hạn đại diện theo thỏa thuận hợp đồng đại diện cho thương nhân.
– Thứ hai, bên giao đại diện thông báo cho bên đại diện về việc chấm dứt hợp đồng đại diện hoặc bên đại diện thông báo cho bên giao đại diện về việc chấm dứt hợp đồng.
Lưu ý:
Khi bên giao đại diện đơn phương thông báo muốn chấm dứt hợp đồng đại diện thì bên đại diện có quyền yêu cầu bên giao đại diện trả cho mình một khoản thù lao do việc bên giao đại diện giao kết các hợp đồng với khách hàng mà bên đại diện đã giao dịch và những khoản thù lao khác mà đáng lẽ mình được hưởng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Trong trường hợp, nếu bên đại diện yêu cầu đơn phương chấm dứt hợp đồng thì bên đại diện bị mất quyền hưởng thù lao đối với các giao dịch mà đáng lẽ mình được hưởng nếu các bên không có thỏa thuận khác.