Bài thơ Khi con thu hú là sự kết hợp hài hòa giữa cảnh vật trong tù và bên ngoài. Chính sự đối lập đã tạo ra sự dồn nén, uất ức khiến khát vọng tự do của người chiến sĩ cách mạng lên tới đỉnh điểm. Vậy đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ Khi con tu hú là gì? Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ Khi con tu hú:
- Đặc sắc về nội dung: Khát vọng tự do, tình yêu cuộc sống của người tù Cách mạng Tố Hữu. Nhà thơ bị giam giữ đã có những khát vọng cháy bỏng được thoát ra khỏi gông tù của quân thù, tiếp tục tận hưởng cuộc sống và cống hiến cho cách mạng, dân tộc
- Nghệ thuật bài thơ:
+ Thể thơ lục bát đậm chất dân tộc, mượt mà êm tai.
+ Dùng một loạt những động từ mạnh, giàu tính biểu cảm: Đạp, ngột, chết uất.
+ Biện pháp liệt kê miêu tả bức tranh mùa hè tươi đẹp, giàu sức sống: Sáo diều, tu hú, bắp rây, nắng đào.
+ Câu cảm thán: Hè ôi!, Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!, thể hiện được cảm xúc mãnh liệt của người tù cách mạng khao khát tự do.
+ Chim tu hú: Có thể là hình tượng nghệ thuật và cũng là hình ảnh thật, là khơi nguồn cảm hứng sáng tác của bài thơ.
2. Dàn ý đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ Khi con tu hú:
Mở bài
Giới thiệu tác giả Tố Hữu và bài thơ “Khi con tu hú”: Bài thơ “Khi con tu hú” của nhà thơ Tố Hữu là một trong những bài thơ hay và đặc sắc nhất được ra đời trong thời gian tác giả bị giam tù.
Thân bài
- Giới thiệu về đặc sắc nghệ thuật của bài thơ:
+ Tố Hữu là một nhà thơ lớn của Việt Nam, thơ văn của ông có sức ảnh hưởng sâu rộng tới nền văn học nước nhà.
+ Trong thơ của Tố Hữu, ẩn chứa những nét riêng độc đáo của một thi nhân nổi tiếng Việt Nam
+ Bài thơ “Khi con tu hú” của ông với những đặc sắc nghệ thuật đã phần nào thể hiện được phong cách và nghệ thuật thơ của Tố Hữu.
- Nghệ thuật miêu tả và trí tưởng tượng của nhà thơ:
+ Cách tưởng tượng của nhà thơ cho thấy sức sống và sinh khí của mùa hè đang trỗi dậy mãnh liệt,
+ Không hề thấy bóng dáng của người tù bị giam cầm trong nhà lao mà chỉ thấy hình ảnh con người đứng giữa trời đất bao la, khoáng đạt tận hưởng không gian rộng lớn.
- Nghệ thuật kết hợp không gian:
+ Dưới ngòi bút và sự tưởng tượng của nhà thơ, bức tranh mùa hè có tiếng ve râm ran, có sân ngô phơi vàng, bầu trời xanh cao rộng và tiếng sáo diều vi vu.
+ Đó là một bức tranh có cảnh gần – xa, cảnh cao – thấp và tràn ngập màu sắc, âm thanh. Đó quả là những vần thơ đẹp, đầy mộng tưởng tình tứ.
Kết bài
Ý nghĩa của đặc sắc nghệ thuật đối với bài thơ: Hai khung cảnh với những cảnh vật khác nhau đã tạo ra sự dồn nén, đẩy niềm khát khao tự do của người tù cộng sản lên đỉnh điểm. Bài thơ để lại những tiếng kêu vang vọng trong lòng người đọc, đó chính là tiếng chim tu hú và tiếng thân uất hận của nhà thơ.
3. Phân tích đặc sắc nghệ thuật bài thơ Khi con tu hú:
Khi con tu hú là bài lục bát ngắn, gồm mười câu thơ khá nổi tiếng của Tố Hữu, được đưa vào chương trình Ngữ văn THCS trong suốt một thời gian dài. Bài thơ là nỗi lòng của tác giả trong những tháng ngày bị giam cầm ở Huế. Không khó để nhận thấy bài thơ hiện lên là hai bức tranh đối lập: Hiện thực cuộc sống tươi đẹp ngoài kia và những tâm tư của tác giả trong tù. Nếu như những xúc cảm bực bội, uất hận ở bốn câu thơ cuối:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi
Ngột làm sao, uất chết thôi
Con chim tu tú ngoài trời cứ kêu
Biểu hiện cho ý chí kiên cường, tinh thần đấu tranh cách mạng đến cùng của người tù cộng sản Nguyễn Kim Thành thì sáu câu thơ đầu lại mang những nét đặc trưng trong nghệ thuật lục bát của nhà thơ Tố Hữu, đặc biệt trong việc miêu tả thiên nhiên.
Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp được bắt đầu bằng tiếng chim tu hú gọi bầy. Đây là một sự lựa chọn đúng đắn và hợp lí của Tố Hữu, vì khi buộc phải ở trong một không gian chật hẹp, hạn chế về thị giác thì sợi dây liên kết khả dĩ nhất của tác giả với thế giới là thính giác. Từ tiếng chim kêu ấy, nhà thơ đã hình dung ra cả một không gian tươi đẹp, tràn trề nhựa sống ở ngoài kia. Không gian đó dường như là vô cùng vô tận, trải dài theo cả ba chiều: chiều dài với những cánh đồng lúa mênh mông, vườn cây ăn trái xum xuê quả ngọt, chiều rộng và chiều cao lồng lộng đến vô cùng của bầu trời xanh. Và màu sắc cũng được nhà thơ huy động đến tối đa để làm cho bức tranh thiên nhiên ấy thêm tươi tắn, sống động, vui tươi. Miêu tả màu sắc là một trong những điểm mạnh nổi bật của thơ Tố Hữu nói chung và lục bát Tố Hữu nói riêng. Ông luôn có những câu thơ miêu tả màu sắc tuyệt hay. Trong bài Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, chỉ bằng hai câu thơ:
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng
Tố Hữu đã miêu tả được năm màu sắc (xanh, hồng, lam, trắng, vàng), ở một bài lục bát khác, bài Tiếng hát sang xuân, Tố Hữu cũng có hai câu lục bát gợi nên những sắc màu gây ấn tượng mạnh với bạn đọc:
Ngoài này nắng đỏ cành cam
Chắc trong ấy nắng xanh lam ngọn dừa
Đặc biệt, ở bài lục bát “kinh điển”
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Tố Hữu cũng miêu tả hàng loạt những màu sắc như xanh, đỏ, trắng và đặc biệt là màu vàng. Trong đoạn thơ này mặc dù chỉ có màu vàng của cây phách được miêu tả trực tiếp, nhưng lại có đến ba màu vàng khác bị ẩn đi. Đó là màu vàng của măng, của trăng và của sợi giang. Đây là nét tài hoa của nhà thơ Tố Hữu mà ít người có được. Và ở khổ thơ này, chúng ta lại một lần nữa bắt gặp hàng loạt những sắc màu như màu vàng đậm của lúa chiêm đang vào vụ chín, màu vàng nhạt của hạt bắp, màu sáng trong của tia nắng đào, màu xanh của trời:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không
Về âm thanh, trong khổ thơ đầu, chúng ta bắt gặp âm thanh của tiếng chim tu hú, tiếng ve ngân và tiếng sáo diều. Ba âm thanh gợi mở ba trạng huống của mùa hè. Tiếng tu hú gọi bầy mang tính chất báo hiệu thời gian bắt đầu dịch chuyển từ xuân sang hè, tiếng ve ngân báo hiệu mùa hè đã thực sự bắt đầu. Như vậy, có thể thấy Tố Hữu đã sử dụng âm thanh để miêu tả thời gian một cách tài tình. Thời gian vật lí không được hiện lên qua các từ, cụm từ quen thuộc như sáng, trưa, chiều, tối, hay được phiếm chỉ qua các từ đầu, giữa, cuối mà bằng thanh âm của những loài vật. Sự miêu tả này vừa bộc lộ khả năng quan sát tinh tế các sự vật, hiện tượng trong đời sống, vừa thể hiện khả năng tái hiện chúng một cách tài tình của Tố Hữu.
Nếu như hai âm thanh đầu mang chức năng tái hiện thời gian, thì âm thanh thứ ba (tiếng sáo diều) còn có nhiệm vụ quan trọng hơn. So với hai âm thanh kể trên, tiếng sáo diều có điểm khác biệt lớn. Đó là âm thanh không có sẵn trong tự nhiên, đó là âm thanh do con người tạo ra bằng tâm hồn nghệ sĩ và bàn tay tài hoa của mình. Sự xuất hiện của tiếng sáo diều báo hiệu rằng ngoài kia có người đang tự do, tự tại, ung dung hưởng thú vui tao nhã nơi “đồng chiều cuống rạ”. Và chỉ đến khi có âm thanh gợi nên bóng dáng của con người, thì mùa hè mới thật sự là mùa hè, mới thật sự toát lên tất cả sức sống mãnh liệt, sự vui tươi trẻ trung. Một mùa hè “chín” thật sự. Mặt khác, không phải ngẫu nhiên Tố Hữu để âm thanh sáo diều xuất hiện cuối cùng trong khổ thơ đầu, đó là âm thanh gợi nên mối liên hệ giữa người với người, làm ý chuyển để đến với tâm trạng tác giả ở khổ sau, nhằm nêu bật lên sự tương phản giữa người tự do và người tù cộng sản.
Một điểm hết sức thú vị trong đoạn thơ này là hệ thống vần. Như chúng ta đã biết vần của lục bát tuân thủ theo quy luật chặt chẽ. Chữ thứ sáu của câu lục hiệp vần với chữ thứ sáu của câu bát, chữ thứ tám của câu bát lại hiệp vần với chữ thứ sáu của câu lục tiếp theo, cứ như vậy liên tục xoay vòng cho đến hết bài. Đây là lối hiệp vần chân thường gặp ở một bài lục bát chuẩn. Lục bát cũng có trường hợp hiệp vần lưng ở chữ thứ tư của câu bát. Thơ Tố Hữu cũng có nhiều câu hiệp vần giữa tiếng thứ sáu của câu lục và tiếng thứ tư của câu bát ví như trong bài Phá đường, ông đã hiệp vần ở tiếng thứ tư ở câu bát hai lần liên tiếp:
Nhà em thóc lúa chưa khô
Ngô chửa vào bồ, sắn thái chưa xong
Nhà em con bế con bồng
Em vẫn theo chồng đi phá đường quan.
Nhưng ở bài Khi con tu hú, trong câu thơ:
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…
Chúng ta thấy Tố Hữu hiệp vần rất đặc biệt. Tiếng thứ sáu của câu lục (cao) hiệp vần với cả tiếng thứ tư (sáo) và tiếng thứ sáu của câu bát (nhào). Đây là hiện tượng hiệp vần kép, khá hiếm gặp trong lục bát hiện đại. Ba chữ này đều có vần “ao”. Theo hiểu biết của chúng tôi, duy chỉ có bài lục bát Ếch mà của Tản Đà cũng có lối hiệp vần như trên:
Phượng kêu trái núi bên tê
Hồng bay bốn bề, nhạn về nơi nào
Ở đây, ba chữ tê – bề – về hiệp vần “ê” với nhau. Cách hiệp vần này có thể coi là một biến thể về vần trong thể lục bát, đem lại sự thú vị cho người đọc, chứng tỏ khả năng sử dụng ngôn ngữ điêu luyện của nhà thơ. Đến đây, có thể nói rằng chỉ bằng sáu câu lục bát, Tố Hữu đã dựng nên cả một bức tranh mùa hè sống động với âm thanh, màu sắc, hình ảnh tươi tắn và bộc lộ hết được sở trường, sự tài hoa của mình trong thể lục bát truyền thống của dân tộc. Đây có lẽ cũng là một trong những lí do Khi con tu hú được bạn đọc nhiều thế hệ yêu thích.
THAM KHẢO THÊM: