Trong môi trường làm việc, vấn đề về quyền riêng tư của người lao động luôn là một chủ đề được quan tâm và tranh luận. Một trong những thắc mắc phổ biến liên quan đến quyền riêng tư là liệu công ty có được phép khám túi hoặc kiểm tra các tài sản cá nhân của nhân viên hay không?
Mục lục bài viết
1. Công ty có được quyền khám túi, khám người nhân viên không?
Theo quy định pháp luật hiện hành, về nguyên tắc, công ty không được phép khám xét người, kể cả khi người đó là nhân viên của công ty. Điều này bắt nguồn từ quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền riêng tư và quyền bảo vệ danh dự, nhân phẩm của mỗi cá nhân. Căn cứ vào các quy định pháp luật cụ thể, quyền này được bảo vệ bởi Hiến pháp, mà tiêu biểu là khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013. Quy định này nêu rõ:
Mọi công dân đều có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay phải chịu bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm đến sức khoẻ, thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
Điều này khẳng định rằng mỗi cá nhân đều có quyền không bị xâm phạm về thân thể, tức là mọi hành vi liên quan đến kiểm tra, khám xét người mà không có sự đồng ý của cá nhân đó hoặc không dựa trên căn cứ pháp lý hợp lệ đều bị coi là vi phạm pháp luật. Quyền này được quy định nghiêm ngặt nhằm ngăn chặn mọi hành vi xâm phạm đến sức khỏe và danh dự của cá nhân, bao gồm cả hành vi khám xét người.
Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 21 Hiến pháp năm 2013 cũng quy định rằng:
Mọi công dân có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Những thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.
Quy định này không chỉ mở rộng quyền bất khả xâm phạm từ khía cạnh thân thể sang các khía cạnh khác như đời sống riêng tư, mà còn nhấn mạnh việc pháp luật sẽ bảo đảm an toàn cho các thông tin liên quan đến bí mật cá nhân và gia đình của mỗi người. Theo đó, việc khám xét túi đồ cá nhân hoặc tiến hành bất kỳ hình thức kiểm tra nào khác liên quan đến tài sản cá nhân của nhân viên mà không có sự đồng ý hoặc cơ sở pháp lý sẽ bị coi là vi phạm quyền riêng tư và bí mật cá nhân, từ đó dẫn đến vi phạm pháp luật.
Mặc dù trên thực tế có nhiều công ty thực hiện các biện pháp kiểm tra như vậy trong quá trình quản lý và giám sát nhân viên, đặc biệt đối với các ngành nghề liên quan đến bảo mật hoặc an ninh, tuy nhiên, những hành vi này về bản chất vẫn vi phạm các nguyên tắc pháp lý nêu trên.
2. Khám xét nhân viên như thế nào là đúng quy định?
Căn cứ vào Điều 193 Văn bản hợp nhất 05/VBHN-VPQH năm 2021, Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định rất cụ thể về thẩm quyền ra lệnh khám xét người.
-
Người có thẩm quyền theo khoản 1 Điều 113 của Bộ luật Tố tụng hình sự là những người có quyền ban hành lệnh khám xét. Tuy nhiên, nếu lệnh này được ban hành bởi những người thuộc khoản 2 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 113, thì lệnh khám xét phải được phê chuẩn trước bởi Viện kiểm sát có thẩm quyền trước khi có thể tiến hành.
-
Trong những trường hợp khẩn cấp, những người có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật Tố tụng Hình sự có thể ra lệnh khám xét ngay lập tức. Tuy nhiên, sau khi hoàn tất việc khám xét, trong vòng 24 giờ, người ra lệnh phải có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Việc thông báo này là một biện pháp nhằm bảo đảm tính minh bạch và sự giám sát của các cơ quan có thẩm quyền đối với mọi hành vi khám xét.
-
Điều tra viên trước khi tiến hành khám xét bắt buộc phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian và địa điểm dự kiến để tiến hành việc khám xét nhằm mục đích để Viện kiểm sát cử Kiểm sát viên giám sát quá trình khám xét, trừ khi đó là tình huống khẩn cấp. Kiểm sát viên có trách nhiệm phải có mặt để kiểm tra, giám sát quá trình này nhằm đảm bảo việc khám xét được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Trong trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì việc vắng mặt này phải được ghi chép lại vào biên bản khám xét để đảm bảo tính minh bạch của quá trình.
-
Bất kỳ việc khám xét nào cũng đều phải được lập biên bản chi tiết, tuân thủ theo các quy định tại Điều 178 của Bộ luật Tố tụng hình sự và biên bản này phải được lưu vào hồ sơ vụ án. Đây là một trong những biện pháp quan trọng để bảo đảm mọi hành vi khám xét đều được ghi nhận và lưu trữ, phục vụ cho việc điều tra và xét xử sau này.
Ngoài ra, Điều 194 Văn bản hợp nhất 05/VBHN-VPQH năm 2021, Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định chi tiết về việc khám xét người:
-
Khi bắt đầu khám xét, người thực hiện lệnh phải đọc lệnh khám xét và cho người bị khám xét xem xét lệnh này. Đồng thời, người bị khám xét và những người có mặt tại thời điểm đó phải được giải thích về quyền và nghĩa vụ của họ. Điều này để đảm bảo rằng người bị khám xét hiểu rõ lý do cũng như quyền của mình trong suốt quá trình khám xét.
-
Người thực hiện khám xét sẽ yêu cầu người bị khám xét tự giao nộp các tài liệu hoặc đồ vật liên quan đến vụ án. Nếu người đó từ chối hoặc không giao nộp đầy đủ, người thi hành lệnh sẽ thực hiện việc khám xét theo đúng quy định. Cần lưu ý rằng việc khám xét phải được thực hiện bởi người cùng giới tính với người bị khám xét và có sự chứng kiến của một người khác cùng giới tính, nhằm đảm bảo sự tôn trọng và không xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người bị khám xét.
-
Trong một số trường hợp đặc biệt, việc khám xét người có thể được tiến hành mà không cần lệnh như trong trường hợp bắt giữ người hoặc khi có căn cứ xác đáng để khẳng định rằng người đó đang giấu trong người các vật chứng, vũ khí hoặc tài liệu liên quan đến vụ án.
Từ những quy định trên, có thể thấy rằng Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã quy định rất chi tiết và rõ ràng về quy trình và điều kiện khám xét người. Việc khám xét này chỉ có thể được thực hiện bởi những cơ quan có thẩm quyền và không một cá nhân hay lãnh đạo nào của công ty có quyền tự ý khám xét người lao động, bao gồm cả việc kiểm tra túi xách, balo, hay vali của nhân viên. Hành động này, nếu xảy ra, sẽ bị coi là xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự và nhân phẩm của nhân viên, vi phạm nghiêm trọng các quy định pháp luật và có thể dẫn đến các hậu quả pháp lý nghiêm trọng cho doanh nghiệp.
3. Công ty khám xét người nhân viên trái phép sẽ bị xử lý như thế nào?
Hiện tại, trong hệ thống pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể xử phạt trực tiếp đối với hành vi người sử dụng lao động khám xét thân thể hoặc đồ đạc cá nhân của nhân viên. Tuy nhiên, hành vi này, nếu xảy ra, có thể được xem là vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự và nhân phẩm của người lao động và có thể bị xử lý thông qua các hình thức xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tùy vào mức độ nghiêm trọng của sự việc.
-
Căn cứ vào quy định tại điểm a khoản 3 và điểm c khoản 4 Điều 19 Nghị định 12/2022/NĐ-CP về vi phạm các quy định liên quan đến kỷ
luật lao động và trách nhiệm vật chất, pháp luật đã đưa ra các biện pháp chế tài rõ ràng đối với hành vi xâm phạm sức khỏe, danh dự, tính mạng, uy tín, hoặc nhân phẩm của người lao động trong quá trình xử lý kỷ luật lao động, mặc dù hành vi này chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể, theo quy định:
+ Người sử dụng lao động có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng nếu có hành vi xâm phạm sức khỏe, danh dự hoặc nhân phẩm của người lao động khi xử lý kỷ luật, nhưng hành vi này chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Mức phạt này áp dụng cho các trường hợp vi phạm ở mức độ hành chính mà không có yếu tố nghiêm trọng đến mức cần sự can thiệp của pháp luật hình sự.
+ Ngoài việc phạt tiền, các biện pháp khắc phục hậu quả cũng được quy định rõ ràng tại điểm c khoản 4 Điều 19 Nghị định 12/2022/NĐ-CP. Trong trường hợp hành vi xâm phạm của người sử dụng lao động gây tổn thương thân thể cho người lao động đến mức người lao động phải điều trị tại cơ sở y tế, người sử dụng lao động sẽ bị buộc phải xin lỗi công khai và thanh toán toàn bộ chi phí điều trị, bao gồm các chi phí y tế và tiền lương mà người lao động lẽ ra được hưởng trong suốt thời gian điều trị. Đây là một biện pháp vừa mang tính chất đền bù về vật chất, vừa có tính chất giáo dục và răn đe đối với hành vi vi phạm quyền của người lao động.
Cần lưu ý rằng mức phạt tiền trên chỉ áp dụng cho cá nhân. Trong trường hợp tổ chức thực hiện hành vi vi phạm, mức phạt sẽ tăng lên gấp đôi so với quy định dành cho cá nhân, theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định 12/2022/NĐ-CP. Có nghĩa là nếu hành vi vi phạm được thực hiện bởi tổ chức, mức phạt tiền có thể lên đến 80.000.000 đồng.
Từ các quy định trên, mặc dù không có chế tài xử phạt trực tiếp cho hành vi khám xét người lao động trong nội bộ doanh nghiệp, nhưng nếu hành vi đó xâm phạm đến danh dự, sức khỏe, hoặc nhân phẩm của người lao động, người sử dụng lao động vẫn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, bao gồm phạt tiền, yêu cầu xin lỗi công khai và bồi thường thiệt hại nếu có. Việc xử lý như vậy nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động và ngăn chặn những hành vi lạm quyền từ phía người sử dụng lao động.
THAM KHẢO THÊM: