Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế? Thừa kế theo pháp luật khi con riêng được thừa kế từ bố dượng, mẹ kế?
Các quan hệ dân sự trong đời sống xã hội được Bộ luật dân sự điều chỉnh cụ thể đối với từng trường hợp. Theo quy định về thừa kế của Bộ Luật dân sự thì con đẻ và con nuôi sẽ được xếp vào hàng thừa kế thứ nhất khi hưởng di sản thừa kế. Tuy nhiên, trên thực tế, nếu các gia đình tái hôn nhân, tức bố dượng, mẹ kế có con riêng thì khi chia di sản thừa kế cần phải xem xét đến mối quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng bố dượng, mẹ kế của con riêng thì mới xét đến được thừa kế hay không. Vậy con riêng có được thừa kế từ bố dượng, mẹ kế để lại không, quy định cụ thể về thừa kế đối với con riêng như thế nào? Bài viết dưới đây của Luật Dương Gia sẽ đi vào tìm hiểu các quy định liên quan để giúp người đọc hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Tổng đài Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7: 1900.6568
Cơ sở pháp lý:
– Bộ luật dân sự 2015.
1. Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế?
Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế được quy định tại Điều 654 Bộ luật dân sự 2015 cụ thể như sau:
Con riêng và bổ dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kể di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật dân sự 2015.
Theo Điều luật trên thì về nguyên tắc con riêng với bố dượng, con riêng với mẹ kế không được hưởng di sản thừa kế của nhau. Nhưng nếu bố dượng, mẹ kế chăm sóc nuôi dưỡng và coi các con như các con của mình thì bố dượng mẹ kế được xác định là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của người con đó. Khi con riêng chăm sóc nuôi dưỡng và coi bổ dưỡng mẹ kế như bố mẹ của mình thì người con riêng được xác định là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của bố dượng mẹ kế khi họ chết.
Quy định tại Điều luật trên đây phải được hiểu, một người vừa được thừa kế di sản của bố, mẹ kế vừa được hưởng thừa kế với đối với gia đình cha mẹ đẻ, ông bà nội ngoại, các cụ nội ngoại, anh, chị, em ruột, cô, dì, chú, bác, cậu ruột của người này qua đời. Việc quy định quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế tại Điều 679 của Bộ luật dân sự năm 2005 dễ hiểu và dễ xác định. Theo đó, con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 (quy định về người thừa kế theo pháp luật) và Điều 677 (thừa kế thế vị). Quy định này được hiểu là một người vừa được thừa kế di sản của bố, mẹ kế vừa được thừa kế đối với gia đình cha, mẹ đẻ của mình, đồng thời được hưởng thừa kế thế vị nếu con của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản; nếu cháu cũng chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha, mẹ chắt được hưởng nếu còn sống.
Trong khi đó, Điều 654
2. Thừa kế theo pháp luật khi con riêng được thừa kế từ bố dượng, mẹ kế?
Để xác định diện thừa kế, các nhà soạn luật đã dựa trên mỗi quan hệ sau: Quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống quan hệ nuôi dưỡng. Trên cơ sở đó, pháp luật quy định diện những người thừa kế theo pháp luật bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột, cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chủ ruột, cậu ruột, cô ruột, di ruột của người chết. Nhưng không phải tất cả những người thuộc diện thừa kế đều được hưởng di sản thừa kế trong điều kiện và cùng một lúc như nhau mà căn cứ vào mức độ gần gũi và trách nhiệm nuôi dưỡng trong mối quan hệ với người để lại di sản. Bộ luật dân sự đã quy định thành ba hàng thừa kế trước và sau.
Hàng thừa kế theo pháp luật được hiểu là nhóm người trong một hàng có quan hệ cùng mức độ gần gũi với người để lại di sản thừa kế. Khi xác định hàng thừa kế theo nguyên tắc không phân biệt đối xử theo giới tính và nguyên tắc không phân biệt đồi xử tùy theo tình trạng pháp lý, theo đó điều luật trên đã quy định ba hàng thừa kế sau đây:
* Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ con nuôi của người chết. Ở hàng thừa kế này có hai mối quan hệ giữa những người thừa kế của nhau:
Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng: Quan hệ thừa kế này dựa trên quan hệ hôn nhân, khi có một bên chết trước thì người còn sống là người thừa kế di sản của người đã chết. Khi thực hiện việc thừa kế di sản giữa vợ và chồng cần lưu ý: Trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
– Trong trường hợp vợ chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
– Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản.
– Trong trong trường hợp một người có nhiều vợ mà tất cả các cuộc hôn nhân đó được tiến hành trước ngày 13/7/1960 ở miền Bắc (ngày công bố
– Đối với cán bộ, chiến sĩ đã có vợ ở miền Nam, sau khi tập kết ra miền Bắc lấy vợ ở miền Bắc và việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng một bản án có hiệu lực pháp luật thì những người vợ đó đều là người thừa kế ở hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại.
Đối với những trường hợp hôn nhân không có đăng ký kết hôn nhưng được thừa nhận là hôn nhân thực tế thì quan hệ vợ chồng vẫn được thừa nhận và vì vậy họ là người thừa kế theo pháp luật của nhau (xem luật hôn nhân và gia đình).
Quan hệ thừa kế là cha mẹ và các con:
Một người sinh ra bao nhiêu người con thì các con đều là con đẻ của người đó. Vì thế, người con chung hay con riêng đều là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của người sinh ra họ. Ngược lại, cha mẹ của người con chung hay của người con riêng đều là người hàng thừa kế thứ nhất của con mình. Đồng thời một người đã nhận người khác làm con nuôi của mình theo qui định của pháp luật là cha nuôi, mẹ nuôi của người con nuôi đó. Vì thế, họ là những người thừa kế ở hàng thứ nhất của con nuôi và ngược lại, con nuôi là người thừa kế ở hàng thứ nhất của cha mẹ nuôi mình” Trong trường hợp bố dượng, mẹ kế chăm sóc nuôi dưỡng và coi các con như các con của mình thì bố dượng mẹ kế được xác định là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của người con đó. Khi con riêng chăm sóc nuôi dưỡng và coi bổ dưỡng mẹ kế như bố mẹ của mình thì người con riêng được xác định là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của bố dượng mẹ kế khi họ chết”.
Như vậy qua phân tích ở trên có thể hiểu rằng khi chứng minh được giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế có mối quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng lẫn nhau như cha con, mẹ con ruột thì con riêng của bố dượng, mẹ kế cũng sẽ được hưởng thừa kế theo hàng thừa kế thứ nhất như các con đẻ khác mà không có sự phân biệt nào trong quyền hưởng thừa kế. Pháp luật quy định điều này là sát với thực tế, đây được coi là một quy định thiết thực và nhân văn trong pháp luật cũng như trong đời sống. Việc quy định này nhằm mục đích để con riêng, bố dượng, mẹ kế những người dù không có quan hệ huyết thống nhưng đều là người trong gia đình, nếu những người này chung sống và có trách nhiệm với nhau như cha con, mẹ con thì quyền lợi được hưởng cũng không phân biệt giữa con riêng hay con chung.
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của luật Dương Gia về vấn đề con riêng có được thừa kế từ bố dượng, mẹ kế để lại không.