Cơ sở quy định thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm. Quyền kháng cáo, kháng nghị và Tính chất của xét xử phúc thẩm và nhiệm vụ của Tòa án cấp phúc thẩm trong tố tụng hình sự.
Cơ sở quy định thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm đã được nhiều nhà nghiên cứu khoa học luật tố tụng hình sự quan tâm nghiên cứu. Theo đó, cơ sở quy định thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm được xác định dựa trên cơ sở quy định thẩm quyền của
Mục lục bài viết
1. Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự:
“Nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là những phương châm, định hướng quan trọng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự trong quá trình xây dựng, giải thích và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự”. Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và là cơ sở để xây dựng hệ thống pháp luật tố tụng hình sự cùng các chế định cụ thể của nó. Trong đó, những nguyên tắc làm cơ sở cho hoạt động xét xử của
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự là nguyên tắc chi phối đến tất cả các hoạt động của các chủ thể trong tố tụng hình sự. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mọi hoạt động tố tụng hình sự đều phải dựa trên căn cứ của luật, tuân thủ đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định; thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng do BLTTHS quy định phải được bảo đảm thực hiện trên thực tế; những hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nếu chưa phản ánh đúng bản chất của vụ việc hoặc có sai lầm đều phải được khắc phục và xử lý kịp thời. Theo đó, việc quy định thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm là cần thiết nhằm kịp thời khắc phục sai lầm, vi phạm trong bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, bảo đảm việc giải quyết vụ án đúng đắn và chính xác.
Nguyên tắc suy đoán vô tội là “nguyên tắc quan trọng, có tính chất nền tảng, chi phối nhiều nguyên tắc khác của tố tụng hình sự”. Theo đó, người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định và có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Bản án kết tội của Toà án có hiệu lực pháp luật là bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do BLTTHS quy định. Bản án bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Do đó, thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm chỉ có đối tượng là bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
Mọi nghi ngờ về tính xác thực của những chứng cứ dùng để chứng minh sự thật vụ án, nếu không thể làm sáng tỏ, mặc dù cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã áp dụng các biện pháp cần thiết theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định, thì phải được giải thích, áp dụng pháp luật theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.
Nguyên tắc này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, góp phần giải quyết đúng đắn vụ án, tránh những oan sai không đáng có, đây cũng là mục đích của việc quy định thủ tục xét xử phúc thẩm. Việc xét xử phúc thẩm theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo phải có kháng cáo, kháng nghị.
Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án là nguyên tắc quan trọng của tố tụng hình sự. Xác định sự thật của vụ án là xác định những tình tiết, diễn biến của vụ án đúng với sự thật khách quan vốn có của nó. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ. Việc hình thành thủ tục xét xử phúc thẩm với những quy định về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm nhằm kịp thời phát hiện, khắc phục những sai lầm trong việc giải quyết vụ án của cấp sơ thẩm, đồng thời buộc Tòa án cấp sơ thẩm phải thận trọng trong việc xác định sự thật của vụ án, làm rõ những vấn đề phải chứng minh trong vụ án và tuân thủ nghiêm chỉnh các yêu cầu về tính hợp pháp và tính có căn cứ khi ra bản án kết tội.
Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm là nguyên tắc cơ bản hình thành nên cấp xét xử phúc thẩm, nhằm khắc phục và sửa chữa những người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, người phạm tội cũng như không làm oan người vô tội. Theo đó, nếu bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do BLTTHS quy định thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Mặc dù quá trình giải quyết vụ án trái qua nhiều giai đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử với nhiệm vụ chứng minh ở những cấp độ và yêu cầu khác nhau nhưng vụ án vẫn có thể có sai lầm do sự giới hạn nhận thức hoặc do những nguyên nhân chủ quan của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Việc quy định vụ án hình sự có thể được xét xử qua hai cấp là một bảo đảm pháp lý cần thiết cho việc xét xử của Tòa án được chính xác và đúng đắn bởi những vấn đề thuộc nội dung vụ án sẽ một lần nữa được xem xét, phân tích, đánh giá kỹ càng, đầy đủ hơn, trên cơ sở đó phán quyết của Tòa án đưa ra bảo đảm độ chính xác cao hơn. Việc quy định và thực hiện nguyên tắc này tạo cơ sở pháp lý quan trọng để VKS và những người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án thể hiện thái độ không đồng tình với việc xét xử của Tòa án để vụ án được xét xử lại ở cấp phúc thẩm. Đồng thời, để đảm bảo dân chủ, công bằng, tạo sự thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật giữa các Tòa án với nhau, cần phải có một thủ tục tố tụng để xem xét lại phán quyết chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới khi có yêu cầu (kháng cáo) của những người tham gia tố tụng hoặc yêu cầu (kháng nghị) của VKS. Nguyên tắc này không những bảo đảm việc xét xử vụ án được khách quan, công bằng mà còn bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Nguyên tắc này cũng là “căn cứ để xác định tính chất, nhiệm vụ và quyền hạn của HĐXX phúc thẩm”.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là nguyên tắc rất quan trọng trong tụng hình sự, góp phần bảo đảm vụ án được giải quyết khách quan, toàn diện và đầy đủ, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
Quyền bào chữa của người bị cáo buộc phạm tội bao gồm tổng hợp các hành vi tố tụng của người bị cáo buộc phạm tội được thực hiện trên cơ sở phù hợp với các quy định của pháp luật nhằm đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Bên cạnh việc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự cũng được coi trọng. Theo đó, bị cáo, bị hại, đương sự có quyền kháng cáo, thể hiện sự không đồng ý đối với bản án sơ thẩm và đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án trong thời hạn do luật quy định. Khi có kháng cáo hợp lệ của bị cáo hoặc những người tham gia tố tụng khác đối với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật thì vụ án phải được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Xuất phát từ nguyên tắc này, thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Đồng thời, trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, quyền bào chữa của bị cáo, quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự phải được đảm bảo.
Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự vì việc xét xử chỉ có ý nghĩa khi bản án, quyết định của Tòa án được thi hành trên thực tế. Nguyên tắc này đòi hỏi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Theo đó, nếu toàn bộ bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì toàn bộ bản án đó chưa có hiệu lực pháp luật và HĐXX phúc thẩm phải xét xử lại toàn bộ vụ án. Nếu chỉ một phần nội dung của bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì HĐXX phúc thẩm không xem xét phần bản án không bị kháng cáo, kháng nghị vì phần bản án đó đã có hiệu lực pháp luật. “Việc thi hành án đòi hỏi tính ổn định của bản án, quyết định được thi hành. Nếu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét phần bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị là làm mất tính ổn định của việc thi hành án”. Tuy nhiên, việc chỉ xem xét, quyết định trong phạm vi kháng cáo, kháng nghị sẽ làm cho HĐXX phúc thẩm không khắc phục được những sai lầm tại phần bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị.
2. Sự phân định các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự:
Chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự là “những định hướng lớn để phân định các hoạt động tổ tụng mà không phải là chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của từng chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự”. Nói cách khác, chức năng cơ bản của tố tụng hình sự là những phương diện chủ yếu của hoạt động tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bao gồm: chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội và chức năng xét xử. Đây là ba chức năng cơ bản của tố tụng hình sự luôn tồn tại ở bất kỳ mô hình tố tụng hình sự nào. Trên cơ sở những chức năng cơ bản sẽ có những chủ thể tương ứng của tố tụng hình sự: chủ thể buộc tội, chủ thể gỡ tội và chủ thể xét xử. Tuy nhiên việc nhận thức về ba chức năng này lại khác nhau phụ thuộc vào tính chất của hệ thống pháp luật, văn hóa pháp lý và các điều kiện kinh tế, xã hội khác.
Điều 102
3. Sự phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự:
Theo quy định của BLTTHS Việt Nam hiện hành, Toà án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là Toà án cấp trên trực tiếp của Toà án đã xét xử sơ thẩm. Do đó, có thể thấy thẩm quyền xét xử sơ thẩm là cơ sở để xác định thẩm quyền xét xử phúc thẩm, hay nói cách khác muốn xác định thẩm quyền xét xử phúc thẩm thì trước hết phải xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
Bên cạnh đó, như đã đề cập ở mục 1.1, HĐXX phúc thẩm chỉ xem xét trong phạm vi những vấn đề đã được Tòa án cấp sơ thẩm xét xử. Đồng thời, thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm cũng phụ thuộc giới hạn xét xử sơ thẩm. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam không quy định trực tiếp, cụ phạm vi thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm trong giới hạn xét xử sơ thẩm, tuy nhiên căn cứ vào nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm và tính chất của xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 27 và Điều 330 BLTTHS năm 2015 thì HĐXX phúc thẩm “xét xử lại vụ án” chứ không xét xử vụ án lần thứ hai. Do đó, HĐXX phúc thẩm chỉ được xét xử đối với những bị cáo và hành vi mà VKS đã truy tố và Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đưa ra xét xử.
4. Tính chất của xét xử phúc thẩm và nhiệm vụ của Tòa án cấp phúc thẩm trong tố tụng hình sự:
Tính chất của các thủ tục xét xử do pháp luật quy định thể hiện bản chất của thủ tục xét xử đó. Nó là cơ sở để xác định nhiệm vụ, quyền hạn của một cấp xét xử. Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của một cấp xét xử không được trái với tính chất của cấp xét xử đó mà phải bao gồm các nội dung xác định rõ Tòa án cấp đó được xét xử những vụ án nào, phạm vi (giới hạn) xét xử và thẩm quyền quyết định đến đâu. Chính các quyền năng này là nội dung thẩm quyền của Tòa án các cấp. Vì thế phải căn cứ vào tính chất của các thủ tục xét xử để quy định thẩm quyền của từng cấp xét xử cho phù hợp.
Như vậy, tính chất của xét xử phúc thẩm là vấn đề quan trọng, quyết định bản chất của thủ tục xét xử phúc thẩm cũng như nhiệm vụ của nó, là cơ sở để xác định thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm.
Tính chất của xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Khi xét xử lại vụ án mà bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm có nhiệm vụ xét xử lại vụ án về nội dung và kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án sơ thẩm. Trên cơ sở tính chất của xét xử phúc thẩm và nhiệm vụ của Tòa án cấp phúc thẩm, thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm được xác định, đó là tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho HĐXX phúc thẩm được xem xét và quyết định đối với vụ án hình sự mà bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
5. Quyền kháng cáo, kháng nghị:
Không phải mọi vụ án hình sự đều được xét xử phúc thẩm, chỉ những vụ án mà bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị hợp lệ thì mới được đưa ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Kháng cáo, kháng nghị hợp lệ là cơ sở đầu tiên phát sinh thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm. Đồng thời, thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm cũng được xác định dựa trên phạm vi và hướng kháng cáo, kháng nghị.
Kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực giới hạn việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong phạm vi kháng cáo, kháng nghị, bảo đảm an toàn pháp lý cho bị cáo và đương sự không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị. Kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực giới hạn việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm theo hướng kháng cáo, kháng nghị, bảo đảm không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo và đương sự nếu không có kháng cáo hoặc kháng nghị theo hướng không có lợi cho họ.
Việc kháng cáo, kháng nghị đối với một phần hay toàn bộ bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật và việc thay đổi, bổ sung, rút một phần hay toàn bộ kháng cáo, kháng nghị đều ảnh hưởng đến quyền hạn của HĐXX phúc thẩm trong việc xem xét và quyết định các vấn đề cụ thể của vụ án. Như vậy, thẩm quyền xem xét và quyết định của HĐXX phúc thẩm phát sinh từ kháng cáo, kháng nghị và bị giới hạn bởi kháng cáo, kháng nghị. Trên cơ sở kháng cáo, kháng nghị, HĐXX phúc thẩm xem xét lại mặt sự việc và mặt pháp luật của vụ án, xét xử lại nội dung vụ án, quyết định giữ nguyên, sửa hoặc hủy bản án sơ thẩm.