Cơ quan phân tích thị giác gồm các tế bào thụ cảm thị giác trong màng luới của cầu mắt, dây thần kinh thị giác (dây số II) và vùng thị giác ở thùy chẩm. Các tế bào nón tiếp nhận các kích thích ánh sáng mạnh và màu sắc. Mời các bạn tham khảo bài viết dưới đây!
Mục lục bài viết
1. Bài tập nhận thức kiến thức mới:
Bài tập 1 (trang 128 VBT Sinh học 8): Quan sát hình 49 – 1, 2 SGK để hoàn chỉnh thông tin sau về cấu tạo của mắt.
Trả lời:
Cầu mắt nằm trong hốc mắt của xương sọ, phía ngoài được bảo vệ bởi các mi mắt, lông mày và lông mi, nhờ tuyến lệ luôn luôn tiết nước mắt làm mắt không bị khô. Cầu mắt vận động được là nhờ cơ vận động mắt. Cầu mắt gồm 3 lớp: lớp ngoài cùng là màng cứng có nhiệm vụ bảo vệ phần trong của cầu mắt. Phía trước của màng cứng là màng giác trong suốt để ánh sáng đi vào trong cầu mắt; tiếp đến là lớp màng mạch có nhiều mạch máu và các tế bào sắc tố đen tạo thành một phòng tối trong cầu mắt (như phòng tối của máy ảnh); lớp trong cùng là màng lưới trong đó chứa điểm vàng, bao gồm 2 loại: tế bào nón và tế bào que.
Bài tập 2 (trang 128 VBT Sinh học 8): Vì sao ảnh của vật hiện lên đúng điểm vàng lại nhìn rõ nhất?
Trả lời:
Ảnh của vật hiện lên đúng điểm vàng nhìn rõ nhất vì:
– Điểm vàng là nơi tập trung các tế bào hình nón, càng xa điểm vàng tế bào nón càng giảm và chủ yếu là tế bào hình que.
– Tế bào hình nón tiếp nhận các kích thích ánh sáng mạnh và màu sắc.
– Ở điểm vàng, mỗi tế bào hình nón liên hệ với một tế bào thần kinh thị giác qua 1 tế bào hai cực.
Bài tập 3 (trang 128 VBT Sinh học 8): Qua kết quả thí nghiệm ở hình 49 – 4 SGK, em có thể rút ra kết luận gì về vai trò của thể thủy tinh trong cầu mắt?
Trả lời:
Sự điều tiết của thể thủy tinh (phồng lên hay xẹp xuống) giúp ta nhìn rõ vật ở xa cũng như tiến lại gần. Vật càng gần mắt, thể thủy tinh càng phồng lên để nhìn rõ.
2. Bài tập tóm tắt và ghi nhớ kiến thức cơ bản:
Bài tập (trang 128-129 VBT Sinh học 8): Điền nội dung thích hợp vào chỗ trống của những câu sau:
Trả lời:
Cơ quan phân tích bao gồm ba thành phần: các tế bào thụ cảm (nằm trong cơ quan thụ cảm tương ứng), dây thần kinh cảm giác và vùng vỏ não tương ứng.
Cơ quan phân tích thị giác gồm: màng lưới trong cầu mắt, dây thần kinh thị giác và vùng thị giác ở thùy chẩm của vỏ đại não.
Ta nhìn được là nhờ các tia sáng phản chiếu từ một vật tới mắt đi qua thể thủy tinh tới màng lưới sẽ kích thích các tế bào thụ cảm ở đây và truyền về trung ương, cho ta nhận biết về hình dạng, độ lớn và màu sắc của vật.
3. Bài tập củng cố, hoàn thiện kiến thức:
Bài tập 1 (trang 129 VBT Sinh học 8): Mô tả cấu tạo của cầu mắt nói chung và màng lưới nói riêng.
Trả lời:
* Cầu mắt: gồm 3 lớp:
– Lớp ngoài cùng là màng cứng có nhiệm vụ bảo vệ phần trong của cầu mắt. Phía trước của màng cứng là màng giác trong suốt để ánh sáng đi qua vào trong cầu mắt.
– Lớp màng mạch có nhiều mạch máu và các tế bào sắc tố đen tạo thành một phòng tối trong cầu mắt (như phòng tối của máy ảnh).
– Lớp màng lưới trong đó có chứa tế bào thụ cảm thị giác, gồm 2 loại tế bào: tế bào nón và tế bào que.
* Màng lưới:
– Màng lưới là bộ phận thụ cảm của cơ quan phân tích thị giác tiếp nhận hình ảnh, gồm các tế bào nón và tế bào que. Các tế bào nón tiếp nhận các kích thích ánh sáng mạnh và màu sắc; các tế bào que tiếp nhận các kích thích ánh sáng yếu giúp ta nhìn rõ về ban đêm.
– Điểm vàng là nơi tập trung các tế bào nón, càng xa điểm vàng số lượng tế bào nón giảm dần và tế bào que tăng dần. Mỗi tế bào nón ở điểm vàng liên hệ với một tế bào thần kinh thị giác qua một tế bào hai cực, nhưng nhiều tế bào que mới liên hệ với một tế bào thần kinh thị giác.
– Điểm mù là nơi đi ra của các sợi trục tế bào thần kinh thị giác, không có tế bào thụ cảm thị giác nên nếu ảnh rơi vào đó sẽ không nhìn thấy gì.
Bài tập 2 (trang 129-130 VBT Sinh học 8): Tiến hành các thí nghiệm sau:
– Đặt một bút bi Thiên Long có màu trước mắt, cách mắt 25 cm, em có thể đọc được chữ trên bút không? Có thấy màu không?
– Chuyển dần bút sang phải, giữ nguyên khoảng cách nhưng mắt vẫn hướng về phía trước. Em thấy có màu và chữ nữa không? Hãy giải thích vì sao?
Trả lời:
– Trường hợp thứ nhất, chữ đọc được dễ dàng và nhận rõ được màu của bút.
– Trường hợp thứ hai, không nhìn rõ chữ trên bút và không nhận được màu của bút khi vẫn hướng mắt về trước mà bút chuyển sang bên phải mắt vì ảnh của bút không rơi vào điểm vàng mà rơi vào vùng ngoại vi của điểm vàng, nơi ít tế bào nón và chủ yếu là tế bào que.
Bài tập 3 (trang 130 VBT Sinh học 8): Hãy đánh dấu × vào ô ở đầu câu trả lời đúng nhất.
Trả lời:
Cơ quan phân tích thị giác gồm:
a) Màng lưới trong cầu mắt. | |
b) Dây thần kinh thị giác. | |
c) Vùng chẩm của vỏ đại não. | |
d) Gồm a và b. | |
x | e) Cả a, b và c. |
4. Cơ quan phân tích thị giác là gì?
Chúng ta nhận biết được những tác động của môi trường xung quanh cũng như mọi thay đổi của môi trường bên ngoài cơ thể là nhờ vào các cơ quan phân tích. Các cơ quan phân tích này sẽ giúp cơ thể nhận biết được những tác động từ môi trường. Khi một trong ba bộ phận của cơ quan phân tích bị tổn thương sẽ làm mất cảm giác với các kích thích tương ứng.
Cơ quan phân tích thị giác gồm các tế bào thụ cảm thị giác trong màng luới của cầu mắt, dây thần kinh thị giác (dây số II) và vùng thị giác ở thùy chẩm. Các tế bào nón tiếp nhận các kích thích ánh sáng mạnh và màu sắc. Các tế bào que có khả năng tiếp nhận kích thích ánh sáng yếu giúp ta nhìn rõ về ban đêm.
Các tế bào nón tập trung chủ yếu ở điểm vàng (nằm trên trục mắt), càng xa điểm vàng số lượng tế bào nón càng ít và chủ yếu là các tế bào que. Mặt khác, ở điểm vàng mỗi tế bào nón liên hệ với một tế bào thần kinh thị giác qua một tế bào hai cực nhưng nhiều tế bào que mới liên hệ được với một tế bào thần kinh thị giác. Chính vì vậy khi muốn quan sát một vật cho rõ phải hướng trục mắt về phía vật quan sát để ảnh của vật hiện trên điểm vàng.
Còn điểm mù là nơi đi ra của các sợi trục các tế bào thần kinh thị giác, không có tế bào thụ cảm thị giác nên nếu ảnh của vật rơi vào đó sẽ không nhìn thấy gì. Như vậy, sự phân tích hình ảnh cũng xảy ra ngay ở cơ quan thụ cảm.
Ta nhìn được vật là do các tia sáng phản chiếu từ vật đi vào tới màng lưới qua một hệ thống môi trường trong suốt gồm màng giác, thủy dịch, thể thủy tinh, dịch thủy tinh. Lượng ánh sáng vào trong phòng tối của cầu mắt nhiều hay ít là nhờ lỗ đồng tử ở mống mắt (lòng đen) dãn rộng hay co hẹp (điều tiết ánh sáng). Nhờ khả năng điều tiết của thể thủy tinh (như một thấu kính hội tụ) mà ta có thể nhìn rõ vật ở xa cũng như khi tiến lại gần. Vật càng gần mắt, thể thủy tinh càng phóng lên (“căng mắt mà nhìn”) để nhìn rõ. Khi các tia sáng phản chiếu từ vật qua thể thủy tinh tới màng lưới sẽ tác động lên các tế bào thụ cảm thị giác làm hưng phấn các tế bào này và truyền tới tế bào thần kinh thị giác xuất hiện luồng thần kinh theo dây thần kinh thị giác về vùng vỏ não tương ứng ở thùy chẩm của đại não cho ta cảm nhận về hình ảnh của vật.