Điều tra vụ án hình sự được xem là một trong những giai đoạn cơ bản của tố tụng hình sự, tăng cường bảo vệ quyền và tự do của công dân trước khi khởi tố. Vậy có những loại thời hạn nào trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự?
Mục lục bài viết
1. Có những loại thời hạn nào trong điều tra vụ án hình sự?
Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, căn cứ theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì có 05 loại thời hạn. Lần lượt được quy định cụ thể tại Điều 172, Điều 173, Điều 174 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bao gồm thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam để điều tra, thời hạn phục hồi điều tra, thời hạn điều tra bổ sung và thời hạn điều tra lại. Luật Dương gia Xin tổng hợp các loại thời hạn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như sau:
Thứ nhất, thời hạn điều tra căn cứ theo quy định tại Điều 172 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Theo đó, thời hạn điều tra là khoảng thời gian do pháp luật quy định để các cơ quan điều tra và các cơ quan có thẩm quyền khác hoàn thành quá trình điều tra vụ án hình sự. Thời hạn điều tra theo quy định của pháp luật sẽ được tính bắt đầu kể từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến ngày kết thúc điều tra trên thực tế. Thời hạn điều tra vụ án hình sự theo quy định hiện nay sẽ không được phép kéo dài quá 02 tháng đối với loại tội phạm ít nghiêm trọng, không được phép kéo dài quá 03 tháng đối với loại tội phạm nghiêm trọng, không được phép kéo dài quá 04 tháng đối với loại tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, quá trình phân loại tội phạm sẽ được thực hiện theo quy định tại Điều 9 của Bộ luật hình sự năm 2015. Nếu suất phát từ các tính chất phức tạp của vụ án hình sự và nhận thấy cần phải có thêm thời gian để tiến hành hoạt động điều tra thì trong khoảng thời hạn 10 ngày trước khi hết thời hạn điều tra, cơ quan điều tra sẽ cần phải gửi văn bản đề nghị gia hạn, gửi đến Viện trưởng viện kiểm sát để thực hiện thủ tục xin gia hạn. Quá trình gia hạn điều tra sẽ được thực hiện cụ thể như sau:
– Đối với loại tội phạm ít nghiêm trọng thì có thể được gia hạn điều tra 01 lần, tuy nhiên mỗi lần không được vượt quá 02 tháng;
– Đối với loại tội phạm nghiêm trọng thì có thể được thực hiện thủ tục gia hạn điều tra 02 lần, tuy nhiên gia hạn lần thứ nhất không được vượt quá 03 tháng, gia hạn lần thứ 02 không được vượt quá 02 tháng;
– Đối với loại tội phạm rất nghiêm trọng thì có thể thực hiện thủ tục gia hạn điều tra 02 lần, tuy nhiên mỗi lần không được vượt quá 04 tháng;
– Đối với loại tội phạm nghiêm trọng thì có thể thực hiện thủ tục gia hạn điều tra 03 lần, tuy nhiên mỗi lần không được phép vượt quá 04 tháng.
Thứ hai, thời hạn tạm giam để thực hiện hoạt động điều tra căn cứ theo quy định tại Điều 173 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Theo đó, thời hạn tạm giam để tiến hành hoạt động điều tra là khoảng thời gian do pháp luật quy định được phép tạm giam bị can để phục vụ cho quá trình điều tra vụ án hình sự. Thời hạn tạm giam bị can để phục vụ cho hoạt động điều tra sẽ không được phép kéo dài quá 02 tháng đối với loại tội phạm ít nghiêm trọng, không được phép kéo dài quá 03 tháng đối với loại tội phạm nghiêm trọng, không được phép kéo dài quá 04 tháng đối với loại tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp nhận thấy vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, cần thiết phải có nhiều thời gian hơn để điều tra, hoặc không có căn cứ để thay đổi biện pháp tạm giam hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất trong khoảng thời gian 10 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam để điều tra, cơ quan điều tra sẽ cần phải lập văn bản và gửi văn bản đề nghị viện kiểm sát ra hạn đối với thời gian tạm giam để điều tra. Thời hạn gia hạn tạm giam để điều tra đối với từng loại tội phạm sẽ được thực hiện cụ thể như sau:
– Đối với loại tội phạm ít nghiêm trọng thì có thể được phép gia hạn tạm giam 01 lần, tuy nhiên mỗi lần không quá 01 tháng;
– Đối với loại tội phạm nghiêm trọng thì có thể thực hiện thủ tục gia hạn tạm giam 01 lần, tuy nhiên mỗi lần không được vượt quá 02 tháng;
– Đối với loại tội phạm rất nghiêm trọng thì có thể thực hiện thủ tục gia hạn tạm giam 01 lần, tuy nhiên không được phép quá 03 tháng;
– Đối với loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì có thể thực hiện thủ tục gia hạn tạm giam 02 lần, tuy nhiên mỗi lần không được vượt quá 04 tháng.
Thứ ba, quy định về thời gian phục hồi điều tra căn cứ theo quy định tại Điều 174 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Theo đó, thời gian phục hồi điều tra là khoảng thời gian do pháp luật quy định để tiếp tục quá trình điều tra vụ án sau khi đã được phục hồi điều tra. Đối với những vụ án có quyết định đình chỉ hoặc có quyết định tạm đình chỉ điều tra tuy nhiên có lý do để hủy bỏ quyết định đó thì cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định phục hồi điều tra nếu nhận thấy thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự vẫn còn. Thời hạn phục hồi điều tra theo quy định của pháp luật hiện nay là không được phép vượt quá 02 tháng đối với loại tội phạm nghiêm trọng và tội phạm ít nghiêm trọng, không được phép vượt quá 01 tháng đối với loại tội phạm rất nghiêm trọng và loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được tính kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc quá trình đấu tranh trên thực tế. Trong trường hợp cần phải gia hạn điều tra xuất phát từ lý do vụ án có những tình tiết phức tạp, chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn điều tra, cơ quan điều tra sẽ cần phải có văn bản đề nghị gia hạn gửi đến viện kiểm sát. Cụ thể như sau:
– Đối với tội phạm ít nghiêm trọng thì sẽ được thực hiện thủ tục gia hạn điều tra 01 lần, tuy nhiên không được phép vượt quá 01 tháng;
– Đối với loại tội phạm nghiêm trọng là loại tội phạm rất nghiêm trọng thì có thể thực hiện thủ tục gia hạn điều tra 01 lần, tuy nhiên không được vượt quá 02 tháng;
– Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì sẽ được thực hiện thủ tục gia hạn điều tra 01 lần, tuy nhiên không được phép vượt quá 03 tháng.
Thứ tư, thời hạn điều tra bổ sung căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015. Theo đó, thời hạn điều tra bổ sung là khoảng thời gian mà pháp luật quy định để tiến hành hoạt động điều tra bổ sung đối với những vụ án hình sự khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền đó là viện kiểm sát hoặc tòa án cấp sơ thẩm. Trong trường hợp vụ án do cơ quan có thẩm quyền đó là Viện kiểm sát trả lại để tiến hành hoạt động điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung trong trường hợp này sẽ không được phép vượt quá 03 tháng. Nếu cơ quan có thẩm quyền đó là viện kiểm sát quyết định truy tố tuy nhiên tòa án trong trường hợp này lại trả lại hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung thì khoảng thời hạn điều tra bổ sung sẽ không được phép vượt quá 01 tháng.
Thứ năm, thời hạn điều tra lại căn cứ theo quy định tại Điều 174 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Theo đó, thời hạn điều tra lại là khoảng thời gian do pháp luật quy định để tiến hành hoạt động điều tra lại đối với các vụ án hình sự theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền đó là hội đồng xét xử phúc thẩm hoặc hội đồng giám đốc thẩm/tái thẩm. Quá trình điều tra lại và gia hạn điều tra lại cũng sẽ được áp dụng theo thủ tục chung quy định cụ thể tại Điều 172 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Hoạt động điều tra lại sẽ được tiến hành trong trường hợp vụ án hình sự được đưa ra xét xử, tuy nhiên cơ quan có thẩm quyền đó là tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, hội đồng giám đốc thẩm hoặc hội đồng tái thẩm hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cấp phúc thẩm bị kháng nghị để yêu cầu điều tra lại.
2. Thẩm quyền điều tra trong vụ án hình sự:
Căn cứ theo quy định tại Điều 163 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về thẩm quyền điều tra trong vụ án hình sự. Cụ thể như sau:
– Cơ quan điều tra của công an nhân dân cấp có thẩm quyền điều tra đối với tất cả các loại tội phạm, ngoại trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân Việt Nam hoặc cơ quan điều tra trong viện kiểm sát nhân dân tối cao;
– Cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân là cơ quan có thẩm quyền điều tra các loại tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự;
– Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cơ quan điều tra của Viện kiểm sát quân sự cấp trung ương là cơ quan có thẩm quyền tiến hành hoạt động điều tra tội phạm đối với các loại tội phạm xâm phạm đến hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ căn cứ theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội được xác định là cán bộ, công chức làm việc và công tác trong các cơ quan điều tra, tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án hoặc những người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.
Theo đó thì có thể nói, thẩm quyền điều tra trong vụ án hình sự sẽ được thực hiện theo quy định nêu trên.
3. Phân cấp thẩm quyền điều tra trong vụ án hình sự:
Việc phân cấp thẩm quyền điều tra vụ án hình sự hiện nay đang được thực hiện theo quy định tại Điều 163 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Cụ thể như sau:
– Cơ quan điều tra cấp huyện, cơ quan điều tra quân sự khu vực sẽ có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự đối với những loại tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân cấp huyện và thuốc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự khu vực;
– Cơ quan điều tra cấp tỉnh là cơ quan có thẩm quyền tiến hành hoạt động điều tra vụ án hình sự đối với những loại tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân cấp tỉnh;
– Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu là cơ quan có thẩm quyền tiến hành hoạt động điều tra vụ án hình sự đối với những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự cấp quân khu hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của các cơ quan điều tra cấp khu vực trong trường hợp nhận thấy cần thiết phải lấy lên để điều tra;
– Cơ quan điều tra thuộc Bộ công an, cơ quan điều tra thuộc Bộ quốc phòng là các cơ quan có thẩm quyền điều tra đối với các vụ án hình sự về các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hủy bạn án để yêu cầu điều tra lại.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017).