Chuyển quyền yêu cầu bồi thường trong pháp luật bảo hiểm là một chế định quan trọng, giúp bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm. Vậy chế định trên được quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Chuyển quyền yêu cầu bồi thường trong pháp luật bảo hiểm là gì?
Chuyển quyền yêu cầu bồi thường trong pháp luật bảo hiểm là việc người được bảo hiểm chuyển toàn bộ hoặc một phần quyền yêu cầu bồi thường của mình cho doanh nghiệp bảo hiểm trong trường hợp thiệt hại do người thứ ba gây ra.
Chuyển quyền yêu cầu bồi thường là một chế định pháp luật quan trọng trong bảo hiểm, có ý nghĩa bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm.
Ví dụ 1
Ông A mua bảo hiểm ô tô cho xe của mình. Một ngày nọ, ông A đang lái xe thì bị xe của ông B đâm vào. Hậu quả, xe của ông A bị hư hỏng nặng. Ông A đã yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường. Doanh nghiệp bảo hiểm xác định lỗi của ông B trong vụ tai nạn này là 100%. Doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho ông A số tiền 100 triệu đồng.
Ví dụ 2
Công ty X mua bảo hiểm cháy nổ cho nhà xưởng của mình. Một ngày nọ, nhà xưởng của công ty X bị cháy do lỗi của người lao động của công ty Y. Công ty X đã yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường. Doanh nghiệp bảo hiểm xác định lỗi của công ty Y trong vụ cháy này là 50%. Doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho công ty X số tiền 50 triệu đồng.
2. Chuyển quyền yêu cầu bồi thường trong pháp luật bảo hiểm:
2.1. Điều kiện chuyển quyền yêu cầu bồi thường trong pháp luật bảo hiểm:
Chuyển quyền yêu cầu bồi thường trong pháp luật bảo hiểm chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau:
– Thiệt hại do người thứ ba gây ra.
Điều kiện này được hiểu là người thứ ba phải có lỗi gây ra thiệt hại cho người được bảo hiểm. Lỗi của người thứ ba có thể là lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý.
Việc quy định điều kiện này nhằm đảm bảo quyền lợi của người được bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu thiệt hại không do người thứ ba gây ra thì người được bảo hiểm không có quyền yêu cầu bồi thường từ người thứ ba. Do đó, doanh nghiệp bảo hiểm cũng không có quyền yêu cầu bồi hoàn từ người thứ ba.
Ví dụ :
Ông A mua bảo hiểm ô tô cho xe của mình. Trong quá trình lái xe, ông A bị một người đi xe máy đâm vào, khiến xe của ông A bị hư hỏng. Trong trường hợp này, thiệt hại do người đi xe máy gây ra. Do đó, doanh nghiệp bảo hiểm có thể chuyển quyền yêu cầu bồi thường cho ông A đối với người đi xe máy.
– Doanh nghiệp bảo hiểm đã thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho người được bảo hiểm.
Điều kiện này được hiểu là doanh nghiệp bảo hiểm đã thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm theo quy định của hợp đồng bảo hiểm.
Việc quy định điều kiện này nhằm đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có thể yêu cầu bồi hoàn từ người thứ ba khi đã thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm.
Ví dụ :
Ông C mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới cho xe của mình. Trong quá trình lái xe, ông C gây tai nạn giao thông làm bị thương một người đi bộ. Doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người đi bộ số tiền 50 triệu đồng. Trong trường hợp này, doanh nghiệp bảo hiểm đã đáp ứng đủ điều kiện để chuyển quyền yêu cầu bồi thường cho ông C đối với người đi bộ.
Từ hai điều kiện đã nêu trên, có thể thấy rằng:
– Điều kiện thứ nhất là điều kiện tiên quyết để chuyển quyền yêu cầu bồi thường. Nếu không đáp ứng điều kiện này thì không thể chuyển quyền yêu cầu bồi thường.
– Điều kiện thứ hai là điều kiện bổ sung cho điều kiện thứ nhất. Nếu đáp ứng điều kiện thứ nhất nhưng không đáp ứng điều kiện thứ hai thì cũng không thể chuyển quyền yêu cầu bồi thường.
Việc quy định hai điều kiện này là phù hợp với nguyên tắc của pháp luật bảo hiểm, đảm bảo quyền lợi của người được bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm.
2.2. Các yếu tố làm phát sinh việc chuyển yêu cầu đòi người thứ ba bồi hoàn trong bảo hiểm tài sản:
Thứ nhất, hợp đồng bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường cho người được bảo hiểm hoặc trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm:
– Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng song vụ: Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với nhau.
– Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng có đền bù: Một bên (bên mua bảo hiểm) phải trả tiền bảo hiểm (phí bảo hiểm) cho bên kia (doanh nghiệp bảo hiểm), bên kia có nghĩa vụ bồi thường cho bên thứ ba hoặc trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
– Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng có tính chất may rủi: Sự kiện bảo hiểm là sự kiện được quy định trong hợp đồng bảo hiểm, khi xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường cho người được bảo hiểm. Tuy nhiên, doanh nghiệp bảo hiểm không biết chắc chắn liệu sự kiện bảo hiểm có xảy ra hay không.
Ví dụ về hợp đồng bảo hiểm: Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng bảo hiểm mà theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm cam kết sẽ trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng theo thỏa thuận trong hợp đồng khi người được bảo hiểm chết hoặc sống đến một thời hạn nhất định.
Hợp đồng bảo hiểm tài sản là hợp đồng bảo hiểm mà theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm hoặc trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng.
Như vậy, Hợp đồng bảo hiểm tài sản là cơ sở phát sinh chuyển yêu cầu đòi người thứ ba bồi hoàn trong bảo hiểm tài sản vì nó là cơ sở hình thành quan hệ bảo hiểm, mà muốn có quan hệ chuyển yêu cầu đòi người thứ ba bồi hoàn trong bảo hiểm tài sản thì phải có quan hệ bảo hiểm.
Thứ hai, phải có sự kiện bảo hiểm xảy ra, nguyên nhân dẫn đến tổn thất là do hành vi có lỗi của người thứ ba gây ra đối với tài sản được bảo hiểm và phải nằm trong phạm vi bảo hiểm
Thứ ba, có thiệt hại thực tế xảy ra và phải có yếu tố lỗi
Ngoài ra, khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các bên cũng cần quan tâm đến yếu tố lỗi của bên thứ ba thực hiện hành vi gây ra thiệt hại cho tài sản được bảo hiểm. Do pháp luật kinh doanh bảo hiểm không có quy định cụ thể về lỗi của bên thứ ba gây ra thiệt hại đối với tài sản được bảo hiểm; vì vậy cần phải quay lại quy định về lỗi trong luật dân sự tức là gồm cả “lỗi cố ý và lỗi vô ý” để giải quyết vấn đề: thiệt hại thực tế xảy ra là cơ sở cho việc chuyển giao quyền yêu cầu đòi bồi hoàn trong bảo hiểm tài sản.
Thứ tư, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phải hoàn thành trách nhiệm bồi thường trước cho bên được bảo hiểm khi có thiệt hại do bên thứ ba gây ra đối với tài sản được bảo hiểm.
Do vậy, có thể nói rằng, doanh nghiệp bảo hiểm hoàn thành trách nhiệm bồi thường trước cho bên được bảo hiểm khi có thiệt hại do bên thứ ba gây ra đối với tài sản được bảo hiểm là một trong các cơ sở hình thành việc chuyển quyền yêu cầu đòi (người thứ ba) bồi thường trong bảo hiểm tài sản.
3. Có những hình thức bồi thường nào trong hợp đồng bảo hiểm tài sản, hợp đồng bảo hiểm thiệt hại?
Căn cứ theo quy định của pháp luật, hiện nay có đến 3 hình thức bồi thường trong hợp đồng bảo hiểm tài sản, hợp đồng bảo hiểm thiệt hại:
– Một là, sửa chữa tài sản bị thệt hại.
– Hai là, thay thế tài sản bị thiệt hại bằng tài sản khác.
– Ba là, trả tiền bồi thường.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ Luật Dân sự năm 2015;
–