Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án hoặc do Toà án thu thập để xác định các tình tiết khách quan của vụ án. Cùng tìm hiểu khái niệm về chứng cứ, Phân loại chứng cứ trong tố tụng dân sự?
Mục lục bài viết
1. Chứng cứ là gì?
Để giải quyết, làm sáng tỏ bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào nói chung và trong tố tụng hình sự nói riêng thì chứng cứ đóng một vai trò vô cùng quan trọng, nó là cơ sở vững chắc nhất, khách quan nhất để xác định sự vật gì, hiện tượng gì là đúng, là sự thật. Trong tố tụng hình sự thì chứng cứ là cơ sở để xác định những nội dung thiết yếu như điều gì đã xảy ra, xảy ra như thế nào từ đó xây dựng được lại toàn bộ quá trình diễn biến của hành vi phạm tội và xác định người thực hiện hành vi phạm tội, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm.
Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng , theo đó BLTTHS Việt Nam lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở của chứng cứ. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất, phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác và con người có thể nhận thức được thế giới khách quan và quy luật của nó, trên cơ sở đó có thể khẳng định, trong thế giới khách quan thì một hành vi phạm tội dù có tinh vi, được che đậy đến đâu cũng sẽ để lại dấu vết và những dấu vết này sẽ được phản ánh lại một cách khách quan. Xác định và thu thập đầy đủ những phản ánh này thì con người sẽ xác định đầy đủ được quá trình một hành vi phạm tội đã xảy ra.
Chứng cứ là gì? Chứng cứ được xác định thông qua những căn cứ nào? Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về chứng cứ như sau
1. Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
2. Chứng cứ được xác định bằng:
a) Vật chứng;
b) Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c) Kết luận giám định;
d) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
2. Thuộc tính của chứng cứ:
Quy định về chứng cứ của BLTTHS Việt Nam năm 2015 với nền tảng là chủ nghĩa duy vật biện chứng đã bao quát được đầy đủ các nội dung cần có của chứng cứ và thể hiện đầy đủ các thuộc tính cần và đủ mà bất kỳ chứng cứ nào cũng phải có. Cụ thể “chứng cứ được sử dụng trong vụ án hình sự phải bảo đảm đầy đủ ba thuộc tính quan trọng sau, đó là tính khách quan (1), tính liên quan (2) và tính hợp pháp (3)”.
– Có tính khách quan: có thật, không phụ thuộc vào ý chí con người tham gia tố tụng, chứng cứ phải được phát hiện, tìm thấy từ một nguồn nhất định.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, khách quan là: “Cái tồn tại bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức của con người. Chứng cứ là những gì có thật, tức là phải tồn tại trong thực tế khách quan chứ không thể coi nhận thức hay những thứ tồn tại trong suy nghĩ, trong tương lai chưa xảy ra là chứng cứ, điều đó cũng có nghĩa rằng chứng cứ là những thông tin, tài liệu, đồ vật khách quan, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Trong BLTTHS 2015 thì tính khách quan của chứng cứ còn được gọi là tính xác thực và để đảm bảo tính khách quan, xác thực của chứng cứ thì nó phải tồn tại một cách thực tế và độc lập với ý thức của người tiến hành tố tụng, nếu người tiến hành tố tụng lấy ý chí chủ quan để áp đặt, suy diễn chứng cứ thì “Những tài liệu phản ánh nhận thức của họ sẽ không có thuộc tính khách quan, không được công nhận là chứng cứ .
-Tính liên quan: trực tiếp hoặc gián tiếp(dùng làm căn cứ)
Ví dụ: Liên quan trực tiếp như kiện đòi nợ, giấy vay nợ; liên quan trực tiếp: phủ nhận vay, giấy công tác, phòng nghỉ khi đi công tác.
Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở mối liên hệ khách quan cơ bản của chứng cứ với sự kiện cần chứng minh. Những gì có thật, tồn tại khách quan phải có mối liên quan khách quan với những sự kiện cần phải chứng minh trong vụ án hình sự mới đảm bảo tính liên quan của chứng cứ. Ngược lại những gì tồn tại khách quan nhưng không liên quan hoặc sự liên quan đó không khách quan thì cũng không đảm bảo thuộc tính này của chứng cứ và không phải là chứng cứ.
-Tính hợp pháp: chứng cứ phải được rút ra từ quá trình chứng minh, chứng cứ chỉ được coi là hợp pháp khi chỉ rút ra từ một nguồn nhất định do pháp luật quy định.
Tính hợp pháp của chứng cứ là một thuộc tính thể hiện chứng cứ phù hợp với các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, tại Việt Nam đây còn là một thuộc tính thể hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự
Thuộc tính hợp pháp của chứng cứ được biểu hiện ở những mặt như: chứng cứ phải được xác định từ nguồn chứng cứ theo quy định của pháp luật; chứng cứ phải được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định...
– Những gì đương sự cung cấp chỉ được coi là căn cứ, bằng chứng thôi. Nếu muốn được coi là chứng cứ thì phải qua một quá trình chứng minh, điều tra và phải được thẩm phán hoặc hội thẩm ra quyết định( người tiến hành tố tụng ra quyết định)
3. Phân loại chứng cứ:
*Căn cứ khi kèm theo
-Chứng cứ theo người gồm chứng cứ theo lời nói của con người và chứng cứ kết luận giám định(chứng cứ khách quan về mặt chuyên môn) do các chuyên gia có chuyên môn giám định.
-Chứng cứ theo vật chiếm đa phần các loại chứng cứ có thể là con dao, di chúc..
*Căn cứ vào mối quan hệ với đối tượng cần chứng minh
-Chứng cứ trực tiếp là những chứng cứ ảnh hưởng luôn, không thông qua một nguồn nào khác. Ví dụ như giấy vay nợ,
-Chứng cứ gián tiếp là những chứng cứ cần phải thông qua một trung gian nào đó. Ví dụ như giấy đi công tác, hóa đơn chứng từ khi nghỉ, hóa đơn khi đi ăn..
*Căn cứ vào hình thức
-Chứng cứ gốc là những lời khai của người biết đầu tiên, không thông qua một ai, trực tiếp mình nhìn thấy, nghe thấy.
-Chứng cứ sao chép thuật lại là chứng cứ mà một người được kể lại từ một người khác, hay thuật lại, tường thật lại.
4. Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự:
Chứng cứ
Chứng cứ là vấn đề trung tâm và quan trọng trong TTDS. Mọi hoạt động trong quá trình chứng minh chủ yếu xoay quanh vấn đề chứng cứ, mọi giai đoạn của TTDS mở ra, kết thúc và kết quả đều phụ thuộc phần lớn vào chứng cứ. Dựa vào chứng cứ mà các đương sự có cơ sở xác đáng chứng minh bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và các cơ quan tiến hành tốt tụng cũng xem xét được tính đúng đắn của sự việc để bảo vệ lợi ích của người dân và bảo vệ pháp luật.
Điều kiện để được công nhận là chứng cứ:
– Các tài liệu đọc được nội dung nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận
– Các tài liệu nghe được, nhìn được nếu được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận hoặc xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, ghi hình đó. Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
– Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình hoặc khai bằng lời tại phiên tòa;
– Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định;
– Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định và có chữ ký của các thành viên tham gia thẩm định;
– Tập quán được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận;
– Kết quả định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá được tiến hành theo thủ tục do pháp luật quy định hoặc văn bản do chuyên gia về giá cả cung cấp.
Việc quy định chứng cứ chặt chẽ, rõ ràng như vậy là để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho đương sự, bảo đảm cho việc giải quyết của Toà án được đúng đắn khách quan và để khắc phục tình trạng tài liệu giả; chứng cứ giả. Do đó các tài liệu đọc được mà không phải là bản chính hoặc bản sao nhưng không có chứng nhận của cơ quan Công chứng Nhà nước hoặc không có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền thì tài liệu đó không phải là chứng cứ. Đối với các tài liệu nghe được, nhìn được mà không có văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc không có văn bản về sự việc liên quan đến việc thu âm, thu hình đó thì tài liệu nghe được, nhìn được đó cũng không phải là chứng cứ.
Trong vụ việc dân sự nếu đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình thì đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ, là hợp pháp. Đương sự tự chịu trách hậu quả về việc không có chứng cứ và chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ.
Chứng minh
Chứng minh là hoạt động chi phối kết quả giải quyết vụ việc dân sự của
Đối tượng chứng minh là những tình tiết, những vấn đề cần phải làm rõ trong quá tình giải quyết vụ việc dân sự. Đối tượng chứng minh được chia làm 2 loại:
- Những tình tiết thuộc về nội dung, bản chất của vụ án
- Những tình tiết khác của vụ án dân sự.
Tùy từng vụ án dân sự khác nhau, tùy phạm vi yêu cầu của các đương sự mà xác định đối tượng chứng minh nào thuộc về bản chất của vụ án. Còn đối tượng khác, không thuộc bản chất của vụ án thương là những chứng cứ cần chứng cứ khác chứng minh làm rõ, những vấn đề không thể hiện trực tiếp các yêu cầu của đương sự trong vụ án dân sự.
Tuy nhiên, có những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo Điều 92 luật này:
Điều 92. Những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh
“1. Những tình tiết, sự kiện sau đây không phải chứng minh:
a) Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Tòa án thừa nhận;
b) Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật;
c) Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp; trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ tính khách quan của những tình tiết, sự kiện này hoặc tính khách quan của văn bản công chứng, chứng thực thì Thẩm phán có thể yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức công chứng, chứng thực xuất trình bản gốc, bản chính.
2. Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh.
3. Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu không vượt quá phạm vi đại diện.”
Về nguyên tắc thì Tòa án không có nghĩa vụ chứng minh mà nghĩa vụ chứng minh trước hết thuộc về đương sự vì:
- Đương sự là người trong cuộc nên thường biết rõ vụ việc, có điều kiện cung cấp các tin tức về vụ việc và nguồn gốc của nó.
- Đương sự có quyền, lợi ích liên quan đến vụ việc dân sự nên họ sẽ quan tâm và tìm mọi biện pháp để khẳng định yêu cầu hay phản đối yêu cầu của mình là có cơ sở.
Tuy nhiên để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự thì Tòa án vẫn cần xác định xem cần phải chứng minh, làm rõ những tình tiết sự kiện nào? Các chứng cứ, tài liệu đã đủ chưa?… Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập chứng cứ thì Tòa án có thể tiến hành các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ.
Có thể nói rằng chứng cứ và chứng minh là những quy định quan trọng trong
5. Chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh trong tố tụng dân sự:
Chứng minh là việc làm rõ một cái gì đó là có thật, chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh là những cách thức góp phần giải quyết một vụ việc dân sự.
Chứng cứ
-Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Toà án hoặc do Toà án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Toà án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.
-Những gì đương sự cung cấp thì chỉ là căn cứ, bằng chứng, nếu muốn được coi là chứng cứ thì phải qua một quá trình chứng minh điều tra và phải được thẩm phán hoặc hội thẩm gọi chung là người tiến hành tố tụng ra quyết định.
Nguồn chứng cứ
-Nguồn chứng cứ được hiểu là nơi rút ra các chứng cứ. Tòa án chỉ có thể thu thập nguồn chứng cứ, từ đó rút ra chứng cứ. Bất kỳ loại chứng cứ nào cũng nằm trong nguồn chứng cứ nhất định, nhưng không có nghĩa là khi thu thập một nguồn chứng cứ nào thì đó nhất thiết trong đó sẽ chứa đựng chứng cứ.
-Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
+Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được;
+ Các vật chứng;
+Lời khai của đương sự;
+Lời khai của người làm chứng;
+Kết luận giám định;
+Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ;
+ Tập quán;
+Kết quả định giá tài sản;
+Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
Về cơ bản, các quan điểm định nghĩa nguồn chứng cứ trong các tài liệu khoa học hiện nay đều có điểm chung đó là khẳng định nguồn chứng cứ là nơi chứa đựng thông tin mà từ đó chứng cứ được rút ra để chứng minh sự thật khách quan của vụ án. Chứng cứ và nguồn chứng cứ là hai khái niệm có mối quan hệ mật thiết với nhau, một bên là thông tin và một bên là nơi chứa đựng thông tin đó, chúng vừa có mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng trong đó nguồn chứng cứ là cái chung còn chứng cứ là cái riêng, vừa có mối quan hệ tiền đề, muốn có chứng cứ trước hết phải có nguồn chứng cứ, chứng cứ phải được và chỉ khi được thu thập từ nguồn chứng cứ thì mới có giá trị chứng minh.
Tại Điều 87 của BLTTHS 2015 đã quy định 7 loại nguồn chứng cứ, đây chính là nơi chứa đựng thông tin, là nguồn chứng cứ mà từ đó sẽ tìm và rút ra chứng cứ làm căn cứ chứng minh và giải quyết vụ án hình sự. Mỗi một loại nguồn chứng cứ này lại có đặc điểm, tính chất khác nhau, cụ thể:
– Nguồn chứng cứ là vật chứng: Có đặc điểm quan trọng nhất đó là nó phải là “vật”, tức là phải có hình khối, có kích thước (dài, rộng, cao) và có trọng lượng mà con người có thể nhận biết được thông qua các giác quan như mắt nhìn, tay sờ, cầm, nắm, thông qua các giác quan đó chúng ta cảm giác được nặng, nhẹ, to, nhỏ, dài, ngắn. “Vật” này có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
– Nguồn chứng cứ là lời khai, lời trình bày: Loại nguồn chứng cứ này là những thông tin có liên quan đến vụ án được lưu giữ trong ý thức chủ quan của người tham gia tố tụng. Chính vì vậy nó không giống với vật chứng, không thể cầm, nắm, đo, đếm được mà chỉ có thể thu thập thông qua việc hỏi, trả lời của người lưu giữ thông tin đó vì nó nằm “trong đầu”, trong nhận thức của họ, cũng chính vì thế nên nó dễ bị ảnh hưởng bởi người tham gia tố tụng, khi họ bị chi phối bởi các yếu tố bên ngoài như tâm sinh lý, mối quan hệ xã hội ...
– Nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử: Đây là một loại nguồn chứng cứ rất mới, lần đầu tiên được ghi nhận trong BLTTHS. Khác với vật chứng và lời khai lời trình bày, dữ liệu điện tử là một dạng thông tin được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử. Về bản chất đặc điểm của loại nguồn chứng cứ này là nó hình thành tự động dưới dạng tín hiệu số và thời gian tồn tại có giới hạn, phụ thuộc vào thiết bị và phần mềm lưu trữ, ngoài ra nó rất dễ bị tác động, bị xóa hoặc thay đổi trong quá trình lưu trữ, truyền tải, sao chép ..., bởi các tác nhân như virus, dung lượng bộ nhớ, phần mềm, phương pháp truy cập, trình độ khai thác, mở, mã hóa, truyền tải trên mạng, sao lưu, cố ý hoặc vô ý sửa đổi, xóa ...
– Nguồn chứng cứ là Kết luận giám định, định giá tài sản: Đặc điểm của loại nguồn chứng cứ này đó là nó được các cơ quan chuyên môn sử dụng khoa học, công nghệ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đánh giá, phân tích và kết luận một nội dung được yêu cầu xác định. Về mặt lý luận và thực tiễn có thể đánh giá đây là những nguồn chứng cứ quan trọng, có giá trị chứng minh rất cao bởi nó là kết quả được thiết lập từ hội đồng, cá nhân có chuyên môn trên cơ sở khoa học, độc lập, tập thể. Giá trị chứng minh, thông tin mà loại nguồn chứng cứ này mang lại luôn mang tính khách quan cao và thường có giá trị mang tính chất quyết định trong việc giải quyết vụ án hình sự.
– Nguồn chứng cứ là biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án: Đây là các tài liệu được lập bằng văn bản theo mẫu thống nhất do cơ quan, người có thẩm quyền lập để ghi lại diễn biến cụ thể của một hoạt động tố tụng hình sự hoặc để ghi lại tình trạng của một sự việc, đối tượng trong một thời điểm cụ thể để làm căn cứ sử dụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Biên bản tố tụng có vai trò quan trọng, là công cụ để thực hiện các hoạt động động tố tụng cũng như là cơ sở để những người tham gia tố tụng có thể theo dõi quá trình tố tụng vụ án hình sự bởi vì biên bản có giá trị thể hiện những phương pháp, biện pháp nào đã được thực hiện, có hợp pháp, khách quan hay không, diễn biến tố tụng đang và đã thực hiện như thế nào cũng sẽ được thể hiện qua biên bản tố tụng.
– Nguồn chứng cứ là kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác: Đây là một nguồn chứng cứ mới được xác định trong BLTTHS 2015. Đặc điểm quan trọng của nó đó là cần có sự hỗ trợ, tương trợ của nước ngoài để có thể thu thập được chứng cứ, chính vì thế ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế phải luôn tuân thủ các nguyên tắc quan hệ quốc tế mang tính chất chung của các quốc gia trong cộng đồng quốc tế theo khuôn khổ Tuyên bố của Liên hợp quốc về các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các quốc gia. Trong đó nguyên tắc quan trọng nhất đó là tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của quốc gia và điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên.
– Nguồn chứng cứ là các tài liệu, đồ vật khác: Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, có rất nhiều những tài liệu, đồ vật có giá trị liên quan đến vụ án mà nhà làm luật không thể dự liệu hết được bởi mỗi vụ án có những đặc điểm, tài liệu, đồ vật có giá trị khác nhau. Để đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ được khách quan, toàn diện thì nhà làm luật đã dự liệu trước những tài liệu đồ vật khác vào nguồn chứng cứ, khi những tài liệu, đồ vật khác này phù hợp, đảm bảo đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ thì hoàn toàn có thể là chứng cứ để giải quyết vụ án hình sự.
Phương tiện chứng minh
– Phương tiện chứng minh là những công cụ do pháp luật quy định các chủ thể chứng minh được sử dụng để làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Các tình tiết, sự kiện thuộc đối tượng chứng minh trong các vụ việc dân sự rất đa dạng đã dẫn đến sự đa dạng các phương tiện chứng minh được sử dụng để làm rõ các vấn đề của vụ việc dân sự.
– Để làm rõ những tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự thì các chủ thể chứng minh phải sử dụng những công cụ nhất định do pháp luật quy định như lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng, kết luận của người giám định… Những công cụ này được gọi là phương tiện chứng minh.
Ví dụ
Ông A chết đi để lại một bản di chúc ghi với nội dung để lại cho cháu nội 100 triệu.Trong giả thiết này thì:
-Chứng cứ là tính tiết sự kiện: trong nội dung di chúc cho cháu 100 triệu
-Nguồn chứng cứ là mặt hình thức: phát hiện ra bản di chúc của ông A chết đi để lại.
-Phương tiện chứng minh: di chúc được gửi tới tòa, tòa dùng công cụ để chứng minh nhằm đạt được kết quả nhất định.