Núi rừng Yên Thế từ lâu nổi tiếng với ngôi đền thờ Chúa Nguyệt Hồ rất linh thiêng và huyền bí bậc nhất, nơi đây duy nhất tại Việt Nam thờ Chúa Bói. Trong bài viết này, xin gửi tới bạn đọc các thông tin về Chúa Nguyệt Hồ, vị chúa bà linh thiêng nơi núi rừng Yên Thế, Bắc Giang.
Mục lục bài viết
1. Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ là ai?
Chúa Nguyệt Hồ hay còn gọi là bà chúa Nguyệt Hồ hay bà Chúa Nhị Nguyệt Hồ, là vị nữ thần thứ hai trong Tam vị thần xứ Mường, được biết đến là vị thầy bói nổi tiếng và linh thiêng nhất Việt Nam, được nhân dân tôn kính thờ trong Tứ Phủ.
2. Sự tích Chúa Bói Nguyệt Hồ?
Theo thần thoại và truyền thuyết vùng Bo (Yên Thế, Bắc Giang), câu chuyện về chúa Nguyệt Hồ được ghi lại như sau: Cuối đời Hùng Duệ Vương, quân Thục đem một lực lượng đông đảo sang đánh giang sơn họ Hùng. Hùng Duệ Vương bèn sai đi các nơi tìm người tài giúp vua đánh giặc. Bấy giờ, có hai người ở vùng Bồ (Yên Thế) là Cao và Quý đến ứng tuyển và được vua chọn đi dẹp giặc. Bái tạ ơn vua, hai ông ngày đêm hành quân về vùng Bồ (Yên Thế) luyện binh, chờ thời cơ tiêu diệt giặc. Khi Quân Thục kéo sang, hai bên đánh nhau ác liệt, thế địch mạnh, quân ta yếu. Hai ông Cao, Quý sai quân lui dọc bờ sông Thương, rồi nhân thế địa hình nguy hiểm quay lại giết giặc. Thuyền chiến dùng dằng không đi được vì các bà con gái lưu luyến yêu mến vùng đất này nên đã dời thuyền trở lại vùng Bo. Hai tướng quay lại đánh giặc, bất ngờ phát động phản công, quân Thục bất ngờ tan tác đại bại, những kẻ tháo lui đều bị quân sĩ tiêu diệt hết. Thắng trận, hai ông về khao thưởng quân sĩ rồi vào triều báo công với vua. Trước khi vào triều, hai ông phi thẳng ngựa đến khu Rừng Từ để xem xét khu vực Bo một lần nữa rồi bỗng nhiên hóa tại đó. Phu nhân và con gái biết tin nhớ thương nên cũng hóa ngay hôm đó, ngày 15 tháng Hai. Sau khi đánh tan quân Thục, nhà vua đã phong cho các danh tướng là Thượng Đẳng Phúc Thần và cho lập đền thờ những vị danh tướng đã đánh giặc muôn đời. Thời vua Lê Đại Hành, “Cao Sơn Quý Minh, Đại Đức Đại Đức, Đại Vương Thượng Đẳng Thần” được phong làm phúc thần vùng Bo.
Người khách nói rằng bà Nguyệt Nga quê ở đất Yên, tính tình nhân hậu, Quỷ Cốc tiên sinh đem lòng yêu mến, dạy cho bà thuật chiêm tinh, thuật số và đặt tên cho bà là Nguyệt Hồ. Để tưởng nhớ công lao và cuộc đời của Chúa, người đời sau đề ra bài văn rằng: “Sống âm thầm mồ côi cha mẹ/ Gặp được thầy Quỷ Cốc tiên sinh/ Một đời người đi làm phúc cứu dân/ Tiên sinh ban phép đặt tên Nguyệt Hồ / Tiếng đồn cho tới Kinh đô / Có bà Chúa bói Nguyệt Hồ rất hay / Cửa nhà gia sự hôm nay / Đồng gia tín chủ Chúa Bà chỉ cho/ Chúa truyền các ghế khỏi lo/Sắm danh sửa lễ làm tôi Chúa bà/Dâng lên vải vóc lụa Là / Thoi xanh, Ngựa tía tiến về ngàn xanh….” Sau khi được Tiên sinh cho phép, bà đã chuyên tâm hiến thân làm việc phúc giúp người dân lành. Chẳng mấy chốc danh thơm đồn khắp kinh đô, được vua triệu về chúa. Mỗi lần đi đánh giặc, vua đều sai người đến hỏi xem lành dữ, hỏi kế, sách lược.
3. Đền thờ Chúa Nguyệt Hồ:
Đền Chúa Nguyệt Hồ ở xã Hương Vĩ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang còn có tên gọi là TỪ LINH HỒ NGUYỆT, có từ lâu đời. Ngôi đền từng có một cung điện thờ nữ thần Nguyệt Nga, được trang trí bằng các bức tượng theo đạo thờ Mẫu. Qua thời gian, ngôi chùa đã được nhân dân địa phương và các nhà hảo tâm nhiều lần tu sửa, trang hoàng cho khang trang và đầy đủ hơn. Quần thể di tích hiện nay bao gồm các công trình: cổng đền, sân đền, hồ Bán Nguyệt, khu đền chính gồm đại bái và hậu cung, kiến trúc cổ truyền thống. Hậu cung có tượng Bà Chúa bản đền, bà chúa Nguyệt Hồ hay công chúa Nguyệt Nga, bài trí các tượng thờ theo đạo Mẫu gồm các hàng Thánh Mẫu, các hàng Quan, hàng Chầu, các ông Hoàng, các cô, các cậu, các Đức Thánh Trần. Hai cung ngoài đại bái còn được bài trí các tượng thờ của đạo mẫu.
Như vậy, đền Nguyệt Hồ, theo bề dày lịch sử, được bao phủ bởi nhiều tầng lớp tín ngưỡng, ngoài tín ngưỡng thờ “Bà Chúa Nguyệt Hồ – Chúa Bói”, tín ngưỡng “Tam Tòa Thánh Mẫu”, tín ngưỡng thờ Cô, thờ Cậu, thờSơnn Trang, thờ các vị thánh đế, Trần Triều… và đền Nguyệt Hồ từ lâu đã được bao phủ bởi một lớp tín ngưỡng “thờ Mẫu”. Theo các nhà nghiên cứu, tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng cổ của người Việt, có từ lâu đời và ngày càng phát triển.
4. Khánh tiệc Chúa Nguyệt Hồ:
Ngày lễ của Chúa Nguyệt Hồ là ngày 15 của tháng thứ hai âm lịch. Vào ngày chính hội, người vùng Bờ khiêng kiệu từ đình làng Bố Hạ về các đền Hạ, Trung, Thượng. Tế xong ở đền Trung, đoàn rước về đền Nguyệt Hồ. Tại đây, lễ vật được dâng lên Chúa Nguyệt Hồ với những nghi thức độc đáo như lễ dâng văn tế Chúa Nguyệt Hồ. Bài cúng dâng Chúa Nguyệt Hồ được thể hiện dưới hình thức ca dao. Người được chọn hát văn phải có giọng hát hay, đàn giỏi và gia cảnh không có tang bụi.
5. Hầu giá Chúa Nguyệt Hồ:
Chúa Nguyệt Hồ thường mặc áo xanh nhảy múa khi ngự đồng. Lễ hội được tổ chức theo âm lịch vào ngày 15 tháng 2 âm lịch tại đền Nguyệt Hồ, là nơi tế lễ với các nghi thức tế văn, hát văn độc đáo. Người được chọn diễn hát xướng, văn nhân phải có giọng hát hay, đàn giỏi, tài sắc vẹn toàn và gia cảnh không buồn phiền.
6. Dâng lễ tại Đền Chúa Nguyệt Hồ:
Hàng năm, vào dịp lễ hội lớn được tổ chức hàng năm tại đền Chúa Nguyệt Hồ hay còn gọi là Đền bà Nguyệt Hồ, hàng nghìn du khách từ khắp nơi trong cả nước và các tỉnh thành đã hành hương về đền thánh để cầu may mắn, hạnh phúc và cầu bình an trong cuộc sống.
Để bày tỏ lòng thành, các con nhang dâng lên Chúa Bà những lễ vật đẹp nhất, tinh tế nhất. Lễ vật khi vào Chùa Nguyệt Hồ gồm 1 bó hoa, 1 đĩa trái cây và nhiều loại trái cây, 1 chai rượu nhỏ, xôi thịt, 1 đĩa trầu cau, tiền giấy và cánh sớ.
Khi đã dâng những của lễ này trên bàn thờ thánh, hãy đợi một tuần hương rồi tiến hành hạ lễ. Riêng cánh sớ và giấy tiền đem đi hóa tại nơi hóa sớ của đền.
7. Bản văn Chúa Nguyệt Hồ:
7.1. Bản văn Chúa Nguyệt Hồ mẫu 1:
Ai lên đến Cao Sơn Bạch Mã
Hỏi thăm Đên Chúa Nguyệt nơi nao
Hỏi thăm ga Kép mà vào
Ngôi đên Chúa ngự khác nào động tiên
Bốn mùa hoa trái dâng lên
Bạn tiên tấp nập đôi bên ra vào
Trước ngôi cao râu râu nét mặt
Chiếc gậy son chúa đặt phía sau
Lá trâu với lại quả cau
Tiên đài chiếc tráp sơn màu xanh lam
Chúa ngôi đó lòng đau như cắt
Dưới trần phàm bao kẻ u mê
Nhớ người con gái thôn quê
Không may nhỡn đãng phải bề khổ tâm
Sống âm thâm mô côi cha mẹ
Gặp được Thây Quỷ Cốc tiên sinh
Một đời làm phúc quên mình
Truyên ban ấn quyết đặt tên Nguyệt Hồ
Tiếng đồn cho tới kinh đô
Có bà Chúa Bói Nguyệt Hồ rất hay
Cửa nhà gia sự hôm nay
Mồ mả đất cát Chúa rầy chỉ cho
Âm dương chồng vợ căn do
Hợp tan tan hợp chỉ cho rõ ràng
Tiên hậu vận mọi đàng hay dở
Việc trong ngoài lầm lỡ chỉ cho
Về đông phán bảo nguyên do
Có căn có số phải lo trình đông
Tam đâu cửu vĩ thuyền rồng
Thoi xanh rừng núi sớ hông kim ngân
Hình hài nón chúa kính dâng
Lập đàn thỉnh chúa lai lâm ngự về
Phép tiên chúa đáng tài cứu thế
Tiếng oai linh quyên chế nơi nơi
Phép tiên xoay đất chuyển trời
Gia công hộ phép cứu người trân gian
Thỉnh mời tiên chúa lai loan
Khuông phủ đệ tử nhân khang thịnh Cường.
7.2. Bản văn Chúa Nguyệt Hồ Mẫu 2:
Rừng tùng bách bốn mùa rợp bóng
Cánh sen hồng còn đọng hơi sương
Hay đây là sự phi thường
Nguyệt hồ chúa bói anh linh ai tày
Ơn lão tố theo thày học đạo
Mười năm tròn tu kiếp thiên nga
Nói rôi binh lửa can qua
Mẫu cho giáng thế trừ tà cứu dân
Nhớ tích xưa đời Lê Thái Tổ
Một thôn nghèo mái đổ màn sương
Lam chiêu rặng cúc đưa hương
Chim ca vượn hít bên đường hoa chen
Khắp chuyện lạ trên trời dưới bể
Có những điều không thể tìm ra
Tử sinh vận hạn trong nhà
Khí hư vận kèm toàn gia tới kỳ
Đường dài tài lộc sinh ly địa lý
Hay huyết ly mộng my thủy phòng
Ý đồ đen trắng đục trong
Người sinh số mệnh đo lòng thanh tao
Đường vận mệnh ai nào biết trước
Kêu chúa bà thời được biết ngay
Ơn trên thánh tổ cao dày
Truyền cho ấn quyết ra tay phù đời
Thuở nam việt nhớ xưa nguồn cội
Chúa có tài bấm độn lục nhâm
Phép tiên xem bói nhập thân
Xem trong thế sự thăng trâm ra sao
Dù ai bị ma cao phù quyết
Bệnh thời làm chẳng biết căn do
Linh phù bùa yếm bà cho
Trừ tà diệt quý khiến cho lại thành
Tiết xuân xanh thành tâm khấn nguyện
Tiến văn châu chúa Nguyệt cung nga
Hương thơm tấu thỉnh ba tòa
Độ cho đồng tử vinh hoa thọ trường.