Sau khi chấp hành xong hình phạt, nhiều người mong muốn được xóa án tích để làm lại cuộc đời và tái hòa nhập xã hội. Tuy nhiên, không ít trường hợp gặp vướng mắc khi chưa hoàn tất nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho bị hại. Vậy trong trường hợp này, chưa bồi thường thiệt hại thì có được xóa án tích hay không?
Mục lục bài viết
1. Chưa bồi thường thiệt hại thì có được xóa án tích không?
Bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự là trách nhiệm dân sự được giải quyết trong vụ án hình sự nhằm để buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải thực hiện khắc phục hậu quả bằng cách đền bù những tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại.
Trong trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà lại chưa có điều kiện chứng minh và không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự sẽ có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Để được xóa án tích, người bị kết án phải đáp ứng được các điều kiện mà pháp luật quy định. Cụ thể:
a. Đối với đương nhiên xóa án tích:
Người bị kết án phải đáp ứng được các điều kiện sau thì sẽ được cơ quan chức năng có thẩm quyền thực hiện xóa án tích (cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích):
- Điều kiện 1: Người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật Hình sự 2015.
- Điều kiện 2: Đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc là hết thời hiệu thi hành bản án.
- Điều kiện 3: Từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó cũng đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án.
- Điều kiện 4: Không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây (kể cả đối với trường hợp kể từ khi hết thời hiệu thi hành bản án):
+ 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được tòa án cho hưởng án treo;
+ 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù cho đến 05 năm;
+ 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm cho đến 15 năm;
+ 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc là tử hình nhưng đã được giảm án.
b. Đối với xóa án tích theo quyết định của tòa án:
Người bị kết án phải đáp ứng được các điều kiện sau thì sẽ được Tòa án xem xét quyết định việc xóa án tích:
- Điều kiện 1: Tòa án căn cứ vào tính chất của tội phạm đã thực hiện, thái độ chấp hành pháp luật, thái độ lao động của người đã bị kết án.
- Điều kiện 2: Phải chấp hành xong hình phạt chính hoặc đã hết thời gian thử thách án treo.
- Điều kiện 3: Từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc đã hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án.
- Điều kiện 4: Từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc đã hết thời gian thử thách án treo, người đã bị kết án không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
+ 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được tòa án cho hưởng án treo;
+ 03 năm trong trường hợp bị phạt tù cho đến 05 năm;
+ 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm cho đến 15 năm;
+ 07 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 15 năm, tù chung thân hoặc là tử hình nhưng đã được giảm án.
Theo quy định trên, cả 02 trường hợp xóa án tích đều có điều kiện để được xóa án tích là từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc đã hết thời gian thử thách án treo, người đó cũng đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án.
Các quyết định khác của bản án được hiểu là các quyết định về những biện pháp tư pháp áp dụng đối với bị cáo, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, những vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, án phí, xử lý các vật chứng, tài sản bị kê biên, tài khoản bị phong tỏa… được quy định ở trong Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Đồng thời, theo quy định tại Mục 2 Công văn 154B/TANDTC-PC năm 2023, Tòa án nhân dân tối cao đã làm rõ khái niệm “các quyết định khác của bản án” quy định tại khoản 2 Điều 70 của Bộ luật Hình sự như sau:
“Nội dung kiến nghị của cử tri tỉnh Bình Dương nêu “Đề nghị Tòa án nhân dân tối cao làm rõ khái niệm “các quyết định khác của bản án” quy định tại khoản 2 Điều 70 của Bộ luật Hình sự”. Về nội dung kiến nghị nêu trên, Tòa án nhân dân tối cao xin trả lời như sau: Các “quyết định khác của bản án” quy định tại khoản 2 Điều 70 của Bộ luật Hình sự được hiểu là các quyết định về biện pháp tư pháp áp dụng đối với bị cáo, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, án phí, xử lý vật chứng, tài sản bị kê biên, tài khoản bị phong tỏa… được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong thời gian tới, thông qua công tác tổng kết thực tiễn xét xử, Tòa án nhân dân tối cao sẽ nghiên cứu ban hành văn bản hướng dẫn quy định tại khoản 2 Điều 70 của Bộ luật Hình sự nếu xét thấy cần thiết.”
Như vậy: Trường hợp cá nhân đã chấp hành xong án phạt tù nhưng chưa thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trách nhiệm dân sự (bồi thường tiền, trách nhiệm cấp dưỡng…) được xem là chưa chấp hành xong “các quyết định khác của bản án”. Vì vậy, cá nhân sẽ KHÔNG đủ điều kiện xóa án tích.
2. Đã thỏa thuận về bồi thường thiệt hại với bị hại thì người bị kết án có được xóa án tích không?
Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015 và quy định tại điểm a khoản 2 Điều 7a Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi năm 2014) quy định về việc người phải thi hành án có các nghĩa vụ sau đây:
- Thi hành đầy đủ, kịp thời bản án, quyết định;
- Kê khai trung thực tài sản, điều kiện thi hành án;
- Cung cấp đầy đủ tài liệu, giấy tờ có liên quan đến tài sản của mình khi có yêu cầu của người có thẩm quyền và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung kê khai đó;
- Thực hiện các quyết định, yêu cầu của Chấp hành viên trong thi hành án;
- Thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có thay đổi về địa chỉ, nơi cư trú;
- Chịu chi phí thi hành án theo quy định của Luật Thi hành án dân sự.
Thi hành khoản bồi thường cho các bị hại theo bản án, quyết định của Tòa án là nghĩa vụ của người bị kết án; nếu người bị kết án không thi hành khoản bồi thường cho các bị hại (mặc dù người bị kết án đã thi hành xong phần hình phạt chính và đã đóng án phí đầy đủ) thì vẫn bị coi là chưa chấp hành xong bản án, quyết định của Tòa án và người bị kết án không đương nhiên được xóa án tích theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 6 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định:
- Đương sự có quyền thoả thuận về việc thi hành án, nếu thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án theo thoả thuận được công nhận.
- Theo yêu cầu của đương sự, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến việc thoả thuận về thi hành án.
- Trường hợp đương sự không thực hiện đúng thoả thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định.
Như vậy: Trong trường hợp giữa bị hại (là người được bồi thường thiệt hại từ người bị kết án) và người bị kết án (có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho bị hại theo bản án) đã có thỏa thuận thi hành án về việc người bị kết án không phải thi hành khoản tiền bồi thường cho bị hại theo bản án của Tòa án thì người bị kết án không phải thi hành khoản tiền này. Và người bị kết án ĐƯỢC xóa án tích theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, khi các bên thỏa thuận cần được lập thành văn bản. Trong văn bản cần nêu rõ thời gian, địa điểm, nội dung thỏa thuận, có chữ ký hoặc là điểm chỉ của các bên tham gia thỏa thuận.
3. Tại sao chưa bồi thường thiệt hại thì chưa được xóa án tích?
Theo quy định tại Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015, một trong những điều kiện để được xóa án tích đương nhiên là người bị kết án phải chấp hành xong bản án. Trong đó bao gồm hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các nghĩa vụ khác do bản án tuyên, trong đó có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho bị hại.
a. Chưa bồi thường thiệt hại nghĩa là chưa chấp hành xong bản án hình sự:
Theo Điều 70 Bộ luật Hình sự 2015, điều kiện để được xóa án tích đương nhiên là người bị kết án phải chấp hành xong bản án, bao gồm cả hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các nghĩa vụ khác do bản án tuyên. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại là một phần của bản án nếu Tòa án đã xác định cụ thể trong phần trách nhiệm dân sự. Do đó, nếu người bị kết án chưa bồi thường hoặc chưa thực hiện đầy đủ phần nghĩa vụ dân sự thì được hiểu là chưa chấp hành xong bản án. Khi bản án vẫn còn phần nghĩa vụ chưa hoàn tất, án tích chưa thể được xóa vì điều kiện cơ bản để xem xét xóa án tích (là hoàn thành toàn bộ bản án) chưa được đáp ứng.
b. Bồi thường thiệt hại là biểu hiện của sự hối cải và khắc phục hậu quả:
Một trong những mục đích của hình phạt hình sự không chỉ là trừng trị mà còn nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội để họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc bồi thường thiệt hại chính là hành vi thể hiện sự ăn năn, thiện chí khắc phục hậu quả của người phạm tội. Nếu người bị kết án cố tình trốn tránh nghĩa vụ bồi thường, pháp luật không thể công nhận họ đã thực sự cải tạo tốt và xứng đáng được xóa án tích. Ngược lại, khi họ tự nguyện bồi thường đầy đủ, đó là dấu hiệu cho thấy sự tiến bộ, ý thức trách nhiệm và tôn trọng pháp luật, qua đó tạo cơ sở để được Nhà nước xem xét xóa án tích – coi như chưa bị kết án.
c. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại:
Việc chưa bồi thường thiệt hại đồng nghĩa với việc người bị hại chưa được khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp mà họ bị xâm hại do hành vi phạm tội gây ra. Do đó, nếu người phạm tội được xóa án tích dù chưa khắc phục hậu quả, điều đó sẽ gây bất công cho người bị hại và làm suy giảm niềm tin của xã hội vào công lý. Chính vì vậy, pháp luật quy định rõ rằng xóa án tích chỉ được thực hiện khi người phạm tội đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ bồi thường nhằm đảm bảo sự công bằng giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại, cũng như bảo vệ nguyên tắc “mọi bản án phải được thi hành triệt để”.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


