Chủ thể, đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật là gì? Đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật của cấp xã, phường.
Mục lục bài viết
1. Chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật:
Chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật được hiểu là tất cả những người mà theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội đã tham gia góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục pháp luật. Chủ thể PBGDPL ở cơ sở xã, phường có nhiều loại. Căn cứ vào mức độ liên quan giữa các mục tiêu giáo dục pháp luật và chức năng, nhiệm vụ do luật định, chủ thể PBGDPL được phân ra thành hai loại: chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp.
Chủ thể chuyên nghiệp là những người mà nhiệm vụ chủ yếu, trực tiếp là thực hiện các mục tiêu giáo dục pháp luật. Đây là các chủ thể nòng cốt của hoạt động giáo dục pháp luật. Chủ thể chuyên nghiệp gồm có:
– Cán bộ Tư pháp cấp xã. Đây là thành phần quan trọng vì họ vừa là công chức, là người thực thi pháp luật ở cấp cơ sở, tiếp xúc nhiều nhất với người dân, có nhiều nguy cơ xảy ra vi phạm pháp luật, nhũng nhiễu, nhưng cũng chính là người tuyên truyền, phổ biến pháp luật, tham mưu cho chính quyền cấp xã các nội dung, kế hoạch về công tác này tại “cơ sở” – địa phương. Ngoài cán bộ Tư pháp xã còn có thể là lãnh đạo UBND cấp xã, các cán bộ, thành viên Hội đồng PBGDPL cấp xã, tuy nhiên, kể từ ngày 1/1/2013, theo Luật PBGDPL, cấp xã không còn mô hình Hội đồng PBGDPL nữa.
– Các báo cáo viên, cổ động viên, tuyên truyền viên về pháp luật ở các hệ thống Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội ở cấp xã.
Các phóng viên, biên tập viên của các báo, đài phát thanh, truyền hình phụ trách các nội dung liên quan đến pháp luật hoặc các chuyên mục pháp luật.
– Giáo viên dạy pháp luật trong các trường từ phổ thông đến đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, các trường Đảng, hành chính, đoàn thể.
– Các giáo viên dạy pháp luật (GDCD) trong các trường THCS trên địa bàn.
– Các cán bộ chuyên gia làm công tác nghiên cứu và chỉ đạo phổ biến, giáo dục pháp luật tại các cơ quan Nhà nước, các tổ chức nghề nghiệp pháp luật, các tổ chức xã hội.
– Chủ thể không chuyên nghiệp là những người phải làm nhiều việc với những mục tiêu khác nhau, nhưng trong đó có nhiệm vụ là thực hiện mục tiêu phổ biến, giáo dục pháp luật. Chủ thể không chuyên nghiệp gồm có:
– Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.
– Cán bộ thuộc các cơ quan hành pháp, tư pháp có một phần nhiệm vụ là PBGDPL, thí dụ: cán bộ
– Các cán bộ thành viên của các tổ chức chính trị, xã hội như Đảng Cộng sản, đoàn thể thanh niên, Công đoàn, phụ nữ….
– Các Luật gia đang hành nghề
– Các cán bộ, nhân viên ở các ngành kinh tế, quản lý Nhà nước về một lĩnh vực kinh tế nào đó (thuế, đất đai, rừng, thuỷ lợi…) trong khi thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mình, có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến pháp luật chuyên ngành cho các đối tượng bị quản lý nhân dân nói chung.
– Chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật còn là chính các công dân cá nhân bằng sự gương mẫu trong ý thức và trách nhiệm thi hành pháp luật trong đời sống đã có tác dụng ảnh hưởng giáo dục tích cực đến hiểu biết, nhận thức của các công dân khác (bố mẹ, ông bà trong gia đình đối với con cháu, thầy cô và học sinh, tổ trưởng dân phố, hoà giải viên, tuyên truyền viên…). Đối tượng này cần được tập trung tuyên truyền về Hiến pháp 2013, về các quyền con người và quyền công dân như quyền được tôn trọng, quyền được bình đẳng trước pháp luật, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do tín ngưỡng…., không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc… Mỗi người, mỗi công dân đều có những quyền, nghĩa vụ nhất định, giáo dục pháp luật cho công dân chính là giáo dục cách để họ tôn trọng quyền, biết tự bảo vệ quyền Hiến pháp đã ghi nhận.
Để hoạt động PBGDPL được thực hiện một cách thường xuyên và có hiệu quả, các chủ thể PBGDPL cần phải:
– Xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể của mình trong hoạt động PB, GDPL để xây dựng các chương trình, kế hoạch từng thời kỳ
Đối với các chủ thể chuyên trách, đó là các nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chuyên môn chủ yếu (Ví dụ: Thực hiện chương trình tuyên truyền pháp luật trên loa truyền thanh đối với các cán bộ Tư pháp xã…). Nhiệm vụ của chủ thể chuyên trách ngoài phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, thành phố, quận, huyện, còn phải phổ biến các văn bản pháp luật của địa phương, nhất là những lĩnh vực liên quan chủ yếu đến đời sống người dân ở địa phương, công tác thực thi pháp luật, phản ánh những khiếu nại, thắc mắc của người dân địa phương tới các cơ quan theo quy định (ví dụ: luật bầu cử; quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng…)
Đối với các chủ thể không chuyên trách, vấn đề này thường ít chú ý đến. Các hoạt động PBGDPL được các chủ thể này thực hiện phần nhiều theo tính chất “thời vụ”, “được đâu hay đấy”, thậm chí chưa trở thành ý thức trách nhiệm, không quan tâm tới đối tượng do mình tác động cũng như tới hiệu quả giáo dục do mình tiến hành. Thông thường, hoạt động PBGDPL của các chủ thể không chuyên trách được gắn liền với hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ. Do đó, hình thức tiến hành phổ biến, giáo dục pháp luật ở đây thường là cá biệt (đối tượng trực tiếp có quan hệ với lĩnh vực chuyên môn của chủ thể: người kinh doanh có nghĩa vụ nộp thuế…). Vì vậy, các mục tiêu, nội dung phổ biến, giáo dục ở đây cũng rất cụ thể và cần phải được chuẩn bị “thường trực” trong từng giai đoạn, từng bước tiến hành công việc chuyên môn. Khi xây dựng kế hoạch, công tác chuyên môn, nghiệp vụ, đồng thời phải xác định các mục tiêu, nội dung giáo dục pháp luật cần thiết cho đối tượng mình quản lý, phục vụ. Ví dụ:
– Xác định rõ nội dung, phương thức, phạm vi hoạt động PBGDPL của từng chủ thể
Đối với các chủ thể chuyên trách, nội dung PBGDPL thường là rộng, bao hàm một loạt các vấn đề pháp luật gắn với những chương trình chung về xây dựng và thực hiện pháp luật. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở gắn với phổ biến Hiến pháp 2013, các luật, nghị định, thông tư, văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản hành chính liên quan trực tiếp đến người dân, công dân, các vấn đề dân sinh liên quan trực tiếp đến địa phương. Tập trung lại là những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của con người, công dân được ghi nhận trong Hiến pháp, cụ thể hóa trong các Luật, Nghị định, Thông tư, các văn bản khác. Ví dụ Hiến pháp ghi nhận công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam, do vậy ngoài phổ biến quy định này của Hiến pháp, còn phổ biến Luật Cư trú, Nghị định của Chính phủ.
Các phương pháp, biện pháp chung, có tính phổ biến của hoạt động tuyên truyền, giáo dục được áp dụng như: diễn thuyết, báo cáo tại các hội nghị, các điểm dân cư, thông tin và các hình thức khác trên báo chí, giảng dạy trên lớp và giáo dục ngoài giờ… Phạm vi tác động của các chủ thể chuyên trách thường rất rộng: từ quy mô toàn quốc (các chủ thể ở các cơ quan chuyên trách phổ biến, giáo dục pháp luật và các báo, đài phát thanh, truyền hình Trung ương), đến quy mô địa phương hoặc từng cơ sở. Đối với các chủ thể chuyên trách ở xã, phường thì phạm vi tác động chỉ ở thôn, xã, phường thuộc địa bàn do chính các chủ thể đó phụ trách.
Đối với các chủ thể không chuyên trách, nội dung giáo luật thường hẹp hơn, cụ thể hơn gắn liền với nhu cầu của đối tượng được PBGDPL hoặc với yêu cầu chuyên ngành của chủ thể. Thí dụ: Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật của đại biểu Hội đồng nhân dân sau mỗi kỳ họp là các văn bản mới được thông qua.
Phương thức, phương pháp thực hiện PBGDPL của các chủ thể không chuyên đòi hỏi một sự sáng tạo, linh hoạt, không kinh điển vì đó thường là giáo dục cá biệt, trực tiếp giữa chủ thể và đối tượng giáo dục pháp luật trong những tình huống đời thường. Thông qua việc giải thích, làm sáng tỏ những nội dung pháp luật cụ thể để giúp hình thành nhận thức về cả một chủ trương, chính sách lớn (từ cái riêng đến cái chung). Một đặc điểm nữa của phương thức
giáo dục pháp luật cá biệt này là việc PBGDPL thường gắn liền với việc áp dụng, vận dụng pháp luật để xử lý, để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Đối tượng và chủ thể PBGDPL ở đây đồng thời là các chủ thể của những quan hệ pháp luật, các quyền và nghĩa vụ pháp lý chính là nội dung được tuyên truyền, giáo dục. Do đó, hiệu quả giáo dục pháp luật cũng rất cụ thể, rất sống động (thể hiện ở việc đối tượng PBGDPL có thái độ như thế nào trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ pháp luật đang được xem xét…). Mặt khác, đặc điểm này cũng đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi rất cao đối với chủ thể PBGDPL là biểu hiện sinh động nhất phương châm giáo dục “nói và làm”.
Xác định rõ yêu cầu đối với từng loại chủ thể
Cũng như mọi chủ thể giáo dục khác, các chủ thể giáo dục, phổ biến pháp luật có những yêu cầu cụ thể về trình độ hiểu biết, về năng lực tổ chức công việc, về phẩm chất, nhân cách, về tính gương mẫu tuân thủ pháp luật. Chỉ trên cơ sở xác định rõ các yêu cầu này mới có được một định hướng và biện pháp xây dựng lực lượng, đào tạo bồi dưỡng để nâng cao hiệu quả các hoạt động PBGDPL của họ. Ở đây chúng ta chỉ dừng lại ở yêu cầu hiểu biết pháp luật. Đối với các chủ thể chuyên trách về PBGDPL cần phải có một trình độ hiểu biết pháp luật nhất định, ít nhất là trung cấp luật, được đào tạo về nghiệp vụ và được chuẩn hoá từng bước trong điều kiện hiện nay. Đối với các chủ thể không chuyên trách, cần nhấn mạnh hơn yêu cầu về hiểu biết pháp luật chuyên ngành gắn với hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của họ. Gắn với yêu cầu hiểu biết pháp luật chung và chuyên ngành đi đôi với các chủ thể PBGDPL còn có một yêu cầu rất quan trọng là hiểu biết về trạng thái ý thức pháp luật, tâm lý pháp lý, nhu cầu và điều kiện cụ thể để tiếp nhận pháp luật của các đối tượng được PBGDPL. Những hiểu biết đó là yếu tố rất cần thiết cho việc tìm ra được cách tiếp cận thích hợp nhất của chủ thể với đối
tượng PBGDPL, làm tăng hiệu quả PBGDPL. Chủ thể chuyển trách tập trung nhiều vào đối tượng cán bộ, công chức cấp xã, do vậy ngoài nội dung truyền tải pháp luật, họ cần thiết phải có trình độ pháp luật cần thiết để thi hành đúng các quy định của pháp luật tại địa phương. Có mối quan hệ biện chứng giữa việc cơ sở (phường, xã, thị trấn) có cán bộ lãnh đạo trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế, xảy ra nhiều vụ việc sai quy định trong điều hành thì không thể triển khai tốt công tác PBGDPL cho người dân tại địa bàn cơ sở đó như những đơn vị khác.
Một yêu cầu chung quan trọng cho mọi chủ thể làm công tác PBGDPL ở cơ sở xã, phường là sự gương mẫu chấp hành pháp luật của họ để thực hiện “làm như tôi nói” và “làm như tôi làm”. Từ việc xác định rõ các yêu cầu đối với chủ thể PBGDPL, có thể đề ra những định hướng, biện pháp, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và tổ chức công việc của các chủ thể sao cho phù hợp nhất với các điều kiện làm việc của họ để đạt được các mục tiêu PB, GDPL.
2. Đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật của cấp xã, phường
Đối tượng của tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những yếu tố cơ bản của lý luận PBGDPL. Việc xác định nội dung, phương pháp, hình thức PBGDPL phù hợp để đạt được hiệu quả cao phụ thuộc phần lớn vào việc nghiên cứu, đánh giá đúng đắn, đầy đủ, toàn diện đối tượng của PBGDPL. Đối tượng của PBGDPL nói chung là những cá nhân công dân hay những nhóm, cộng đồng xã hội cụ thể tiếp nhận tác động của các hoạt động PBGDPL mà ý thức pháp luật và hành vi của họ là khách thể của PBGDPL.
Đối tượng PBGDPL rất phong phú, đa dạng và có thể phân loại thành các nhóm dựa trên các yếu tố phản ánh trạng thái, địa vị pháp lý của từng loại đối tượng. Trên cơ sở phân loại đó, các chủ thể PBGDPL sẽ lựa chọn các nội dung, hình thức, phương pháp PBGDPL phù hợp nhằm trang bị cho từng loại đối tượng những tri thức cần thiết để họ thực hiện quyền và nghĩa vụ tương xứng với địa vị pháp lý công dân của họ trong các quan hệ pháp luật.
Ở nước ta hiện nay, theo Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (7/1/1998) cần tập trung phổ biến, giáo dục pháp luật cho các nhóm đối tượng sau đây:
Cán bộ, công chức viên chức Nhà nước nói chung và cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn nói riêng. Đây là đối tượng cơ bản vì theo Luật Cán bộ, công chức họ là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị – xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Tóm lại, họ vừa là chủ thể của công tác PBGDPL cấp cơ sở, vừa là người đại diện quyền lực nhà nước thi hành pháp luật tại địa phương, vừa là đối tượng dễ xảy ra nhiều vi phạm pháp luật, vi phạm các quyền, lợi ích của người dân nếu họ không minh bạch, tham nhũng, lãng phí, cửa quyền, hách dịch với người dân ở cơ sở… Trong các giao dịch hành chính với người dân, đối tượng cán bộ, công chức cấp phường, xã, thị trấn là đối thoại trực tiếp – điều kiện để xảy ra tham nhũng, nhũng nhiễu nhiều nhất, do vậy, đối tượng này cần phải được PB, GDPL nhiều nhất.
– Học sinh, sinh viên: Tập trung vào học sinh khối tiểu học, THCS của các trường học trên địa bàn. Đây là đối tượng cần tập trung vì đây là lứa tuổi cần phổ biến cho các em các quy định của Hiến pháp, các luật cụ thể về các quyền con người, quyền công dân nhằm trang bị kiến thức, hành trang pháp luật trước khi các em trưởng thành.
– Các tầng lớp nhân dân. Thực hiện đúng quy định của Hiến pháp “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”, “Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”, việc phổ biến, pháp luật cho các tầng lớp nhân dân không chỉ giáo dục nâng cao ý thức pháp luật, hạn chế vi phạm pháp luật mà còn giáo dục về các quyền công dân theo tinh thần: Công dân được làm những gì pháp luật không cấm. Việc phổ biến, bảo đảm thực hiện quyền tự do của công dân chính là cơ sở để xác định và tiêu chí đánh giá hoạt động của cơ quan nhà nước tại chính địa phương, cơ sở đó.
– Các hộ kinh doanh trên địa bàn; Các lực lượng vũ trang nhân dân, tập trung vào địa bàn các phường, xã, thị trấn có nhiều lực lượng vũ trang như công an, quân đội
Đối tượng của công tác PBGDPL ở cơ sở xã, phường chủ yếu là nhóm đối tượng thứ ba, đó là các tầng lớp nhân dân. Nhóm này bao gồm: Thanh niên, phụ nữ, nông dân, người dân tộc thiểu số, và học sinh ở các trường tiểu học, trung học cơ sở. Nghiên cứu nhóm đối tượng này, cần làm rõ địa vị pháp lý, đặc điểm của mỗi loại đối tượng. Qua đó xác định tình trạng của các quan hệ tồn tại giữa mỗi loại đối tượng này với Nhà nước, với xã hội. Chúng ta tìm hiểu đối tượng này từ trạng thái công dân – nét đặc trưng của mỗi loại đối tượng như: độ tuổi (đối với học sinh tiểu học, trung học cơ sở), trình độ học vấn thái độ tâm lý, tính tích cực chính trị xã hội; lợi ích, nhu cầu, mối quan tâm tới pháp luật; điều kiện, khả năng tiếp nhận giáo dục… của họ.
+ Học sinh, tiểu học bắt đầu từ lớp 1 đến lớp 5 với độ tuổi từ 6 đến 11 tuổi, trung học cơ sở từ lớp 6 đến lớp 9 với độ tuổi từ 11 đến 15 tuổi đang học ở các trường tiểu học và trung học cơ sở chịu sự quản lý của xã. Học sinh tiểu học, trung học cơ sở là lớp người cần được Nhà nước đặc biệt quan tâm, đảm bảo cho quá trình phát triển của các em vì các em còn nhỏ bé về thể chất, nông cạn về tư duy nhận thức, nghèo nàn về vốn sống. Những điều ấy sẽ ngày càng được bồi đắp và hoàn thiện qua các bậc học tiếp theo. Trong quá trình phát triển ấy, một mặt họ chịu sự quản lý, giám sát, ảnh hưởng của gia đình, mặt khác chịu sự tác động giáo dục của Nhà trường mà trực tiếp thông qua các thầy cô giáo với những chương trình, nội dung giáo dục cũng như sự ảnh hưởng (tích cực hay tiêu cực) của môi trường xã hội mà các em sống và học tập). Đặc điểm của học sinh tiểu học, trung học cơ sở là nhóm xã hội mới được bước vào quá trình đào tạo, chưa tham gia vào hoạt động quản lý hay sản xuất kinh doanh của xã hội mà công việc chủ yếu của các em là học tập. Vì thế, những suy nghĩ, lối sống cũng như những quan niệm về đời sống xã hội của các em còn đang bắt đầu được bồi đắp, định hình thông qua hoạt động học tập và sinh hoạt ở ba môi trường gia đình, nhà trường, xã hội.
Một đặc điểm về ý thức pháp luật của học sinh tiểu học và trung học cơ sở là chưa đầy đủ, toàn diện, sâu sắc như một số nhóm xã hội khác do đặc điểm, điều kiện và khả năng của các em. Vì thế, những hiểu biết về pháp luật của các em còn hạn hẹp rất nhiều. Chúng ta không thể đòi hỏi ngay ở các em phải có ý thức pháp luật như tất cả các nhóm đối tượng khác, nhưng khi còn là học sinh, các em cũng cần phải có một lượng tri thức pháp luật nhất định làm cơ sở để dần dần hình thành thói quen “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, đồng thời chuẩn bị để trong tương lai, họ sẽ trở thành các công chức, viên chức trong bộ máy Nhà nước, các nhà quản lý sản xuất kinh doanh, những người lao động… Đó là các đối tượng không chỉ hiểu biết pháp luật mà còn phải nắm chắc pháp luật. ý thức pháp luật của lớp học sinh này rất dễ bị biến động, dễ chịu sự tác động trực tiếp của môi trường và ý thức pháp luật của những người xung quanh. Thông thường, lớp người này còn phụ thuộc hoàn toàn vào gia đình về kinh tế, do đó chịu ảnh hưởng trực tiếp toàn bộ các mặt đời sống của bố mẹ và những người thân trong gia đình, bao gồm cả trình độ nhận thức, đạo đức và ý thức chấp hành pháp luật. Mặc khác, do khả năng của bản thân và phát triển quan hệ xã hội của học sinh ngày càng tăng phù hợp với việc học tập, sinh hoạt của họ, cho nên cùng với ảnh hưởng của gia đình, lớp người này đồng thời chịu sự tác động của xã hội, nhà trường, tổ chức Đoàn, Đội, nhóm bạn bè… Trong những môi trường này, nếu trình độ am hiểu pháp luật càng cao, ý thức chấp hành, tuân thủ pháp luật càng nghiêm thì sẽ giúp học sinh hiểu biết pháp luật đầy đủ hơn, sâu sắc hơn và càng hướng cho họ đi vào đúng quỹ đạo của cuộc sống theo yêu cầu của pháp luật, tránh được sự sa ngã, sai lầm một cách thiếu tự giác của lớp người này. Vì thế, việc giáo dục pháp luật để nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh tiểu học, trung học cơ sở, chúng ta không chỉ quan tâm tập trung cho đối tượng này, mà phải đồng thời tác động đến người thường xuyên giao tiếp với các em (bố mẹ, anh chị, ông bà và những người xung quanh) bằng các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, với nội dung, hình thức, phương pháp, phương tiện thích hợp, đồng bộ.
+ Thanh niên, ở cơ sở xã thông thường là tầng lớp Đoàn viên thanh niên ở địa phương trực tiếp tham gia lao động sản xuất, làm dịch vụ. Họ là những người công dân đã trưởng thành và là lớp người trẻ tuổi, là lực lượng nòng cốt của đất nước khi bước vào thế kỷ XXI. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000 đã xác định: Con người mới là con người
có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân, có ý thức, có sức khoẻ và lao động giỏi, sống có văn hoá và tình nghĩa…. Thế hệ công dân đó sẽ sống trong một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh. Ưu điểm của lớp thanh niên ở cơ sở xã là tích cực, nhạy bén, năng động trong lao động sản xuất cũng như trong quan hệ xã hội. Bên cạnh đó, họ còn có nhược điểm là thường nông nổi, bồng bột, dễ bị kích động, bị lôi kéo, đôi khi tự cao, tự mãn hoặc tự ti, tự phụ, thích tự do phóng khoáng hay đua đòi… Vì vậy, để thế hệ công dân trẻ có được đầy đủ ý thức và trách nhiệm công dân, có thể thực hiện tích cực các nghĩa vụ và các quyền hợp pháp của mình thì giáo dục pháp luật trong quá trình lao động sản xuất của họ là một vấn đề quan trọng. Bên cạnh đó, thực trạng hiểu biết pháp luật yếu kém, tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm ở thanh niên xảy ra nghiêm trọng đặt ra những yêu cầu thực tế, bức xúc phải có biện pháp giáo dục, ngăn chặn, phòng ngừa cấp bách, trong đó, giáo dục pháp luật là một biện pháp quan trọng.
+ Phụ nữ, là một trong những đối tượng có những đặc điểm tự nhiên cần được Nhà nước quan tâm và bảo vệ. Bởi vì, trước hết họ cũng là những người công dân đã trưởng thành như bao người công dân khác; họ cũng tham gia lao động sản xuất ở mọi ngành nghề (trừ một số ngành nghề đặc biệt mà Nhà nước không cho phép tuyển dụng phụ nữ), hoạt động trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… Ngoài ra, họ còn đảm nhận một thiên chức đặc biệt mà tạo hoá đã ban cho họ, đó là làm mẹ. Để người phụ nữ có thể gánh vác được mọi công việc ngoài xã hội cũng như trong gia đình, đặc biệt là trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục con cái thì những hiểu biết về quyền bình đẳng nam nữ trên mọi lĩnh vực, kiến thức pháp luật về hôn nhân và gia đình, về an toàn lao động, vệ sinh lao động… là rất quan trọng. Vấn đề đáng quan tâm nhất là phụ nữ ở các cơ sở vùng nông thôn, phần lớn họ có trình độ văn hoá thấp, không có điều kiện để được học tập. Một đặc điểm thường thấy ở phụ nữ những vùng này là lấy chồng sớm, sinh con nhiều nhưng thiếu kiến thức về nuôi dạy con. Vì thế, họ chính là những người cần phải được hiểu biết về kế hoạch hoá gia đình cũng như các quy định của pháp luật về các quyền, lợi ích hợp pháp để đảm bảo sự phát triển của họ.
+ Nông dân, ở cơ sở xã chiếm số lượng lớn trong tổng số dân của cả nước. Họ làm nông nghiệp nên luôn gắn bó với ruộng đất, vườn tược. phần lớn trong số họ có trình độ văn hoá không cao, nhưng họ chính là lực lượng lao động không thể thiếu được của một nước chủ yếu là nông nghiệp như ở nước ta. Đối với người nông dân, nếu không biết rõ các quy định của pháp luật về quyền sử dụng đất, về thuế nông nghiệp, về giao dịch dân sự và hôn nhân, gia đình thì thật khó khăn khi tham gia giao động sản xuất cũng như sinh hoạt trong cuộc sống cộng đồng. Vì thế, việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho người nông dân cũng là vấn đề cấp bách đang được Đảng và Nhà nước đặt ra. Đối với nhân dân tại các phường, thị trấn ở Hà Nội, trình độ văn hoá có phần cao hơn và cuộc sống cũng khá hơn so với các vùng nông thôn, miền núi, một số tỉnh thành phố khác. Hơn nữa, họ được ở gần các trung tâm văn hoá, xã hội, nên có điều kiện tiếp xúc thường xuyên với các thông tin mới về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… Song, không phải mọi người dân Hà Nội đều có nhận thức đúng đắn đối với các quy định của Nhà nước, có ý thức thực hiện các quy tắc sinh hoạt cộng đồng ở đô thị, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông và trật tự, an toàn cũng hết sức quan trọng đối với nhân dân thành thị. Do đó, công tác PBGDPL cho nhân dân thành thị là không thể thiếu được.
– Đối tượng PBGDPL ở cơ sở rất quan trọng, vừa là một bộ phận của chủ thể, vừa là khách thể, đó chính là các cán bộ, công chức của nhà nước ở cơ sở, hay nói cách khác chính là cán bộ của các xã, phường, thị trấn. Họ là người thực thi các quyết định hành chính, triển khai trực tiếp và là đầu mối cuối cùng trong thi hành pháp luật của nhà nước tới người dân. Họ là người có quyền lực hành pháp thực tế, do vậy cũng là đối tượng dễ lạm quyền để tham ô, tham nhũng, không minh bạch, vi phạm quyền và lợi ích của người dân. Chính vì vậy, đối tượng cán bộ, công chức tại các phường, xã, thị trấn cần phải được giáo dục nhiều nhất. Trong những nội dung pháp
Luật PBBGDPL quy định nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật cho một số đối tượng đặc thù như:
– Đối tượng là người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân.
– Đối tượng là người lao động.
– Đối tượng là nạn nhân bạo lực gia đình; Mua bán người; tảo hôn…. Đối tượng là người yếu thế trong xã hội như (người có công; hộ nghèo, cận nghèo, trẻ em, người khuyết tật….)
– Đối tượng là người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo.