Để phát triển kinh tế và duy trì được sự ổn định, trật tự xã hội, Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách mới đáp ứng nhu cầu thực tế. Trong đó, chính sách được quan tâm nhất đó chính là chính sách hình sự, một chính sách mang tính nghiêm khắc và có giá trị pháp lý cao.
Mục lục bài viết
1. Chính sách hình sự là gì?
Hiện nay có nhiều quan điểm đưa ra khi định nghĩa cho khái niệm về chính sách hình sự.
Quan điểm thứ nhất:
Chính sách hình sự là chính sách của Nhà nước đối với việc đấu tranh phòng, chống tội phạm bằng biện pháp pháp luật hình sự nhằm đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội
Quan điểm thứ hai: Chính sách hình sự là chính sách phòng chống tội phạm.
Quan điểm thứ ba:
Chính sách hình sự là chủ trương đường lối sử dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án hình sự để đấu tranh phòng chống tội phạm.
Quan điểm thứ tư:
Chính sách hình sự là bộ phận của chính sách pháp luật bao gồm những định hướng, chủ trương trong việc sử dụng pháp luật hình sự (luật vật chất) vào lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm.
Như vậy, tóm lại chính sách hình sự được hiểu là đường lối chính sách áp dụng cho hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật có chức năng đấu tranh phòng chống tội phạm. Là bộ phận của chính sách pháp luật, là những định hướng, chủ trương trong việc sử dụng pháp luật hình sự vào lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm và phòng ngừa tội phạm (bao gồm chính sách về tội phạm và chính sách về đấu tranh phòng chống tội phạm.
2. Những thuật ngữ pháp lý liên quan dịch sang tiếng Anh:
Criminal policy is understood as the policy line applicable to the activities of law protection agencies with the function of fighting against crime.
Chính sách hình sự | Criminal policy |
Hiến pháp | Constitution |
Bộ luật hình sự | Criminal Code |
Tội phạm | Crime |
3. Những vấn đề lý luận về chính sách hình sự:
Hiện nay, trong các công cụ hữu hiệu mà Nhà nước ta sử dụng để đấu tranh với tội phạm thì không thể thiếu đến chính sách hình sự. Việc đưa ra những đánh giá đúng đắn và chính xác, càng chi tiết, cụ thể càng giúp nhiều trong việc xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội, Và, vì thế đòi hỏi phải phân hóa cao độ các loại hành vi trong các đạo luật và đồng thời phải bảo đảm thường xuyên theo dõi, bổ sung, sửa đổi kịp thời, cập nhật những quy định xử lý kịp thời (trong những giới hạn cho phép của hoạt động lập pháp) để điều chỉnh và xử lý những hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Vấn đề sửa đổi bổ sung đó cần thực hiện thường xuyên theo hai xu hướng khác nhau, tưởng chừng như trái ngược nhau hoàn toàn nhưng nhìn chung vẫn vì mục đích cuối cùng và thống nhất chặt chẽ, nếu không nói là biện chứng trong một quá trình thống nhất mà trong khoa học luật hình sự thường được nhắc đến: xu hướng hình sự hóa, tội phạm hóa và xu hướng phi hình sự hóa, phi tội phạm hóa. Cụ thể hai xu hướng này có một mặt, quy định bổ sung những hành vi mới được coi là tội phạm hoặc gia tăng thêm mức độ hình phạt đối với một số loại hành vi gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội nào đó; và ngược lại, theo một phương diện khác thì nhằm loại bỏ một số tội danh ra khỏi danh mục các hành vi được coi là tội phạm hoặc có thể mang tính nhân đạo hơn là giảm thiểu các biện pháp và mức độ nghiêm khắc của hình phạt đối với những loại hành vi khác.
Nhìn chung, cả hai xu hướng này song song tồn tại và gắn liền hữu cơ với nhau và không thể tách rời nhau, bởi vì, khi những hành vi xâm hại đến những nhóm mối quan hệ xã hội nào đó được coi là gia tăng tính nguy hiểm xã hội, thì ngược lại, những hành vi có tính chất và giá trị xã hội trái ngược nó lại xâm hại hoặc đe dọa xâm hại các mối quan hệ xã hội mà xét về tính chất mâu thuẫn với nhóm quan hệ xã hội kia.
Và cũng như vậy, việc đưa ra kết luận một hành vi, một loại hành vi nào đó xảy ra với mức độ thường xuyên trong đời sống xã hội là tội phạm, hoặc quyết định đưa ra khỏi các đạo luật hình sự những quy định về hành vi nào đó từng được coi là tội phạm chỉ có thể thuộc thẩm quyền của cơ quan lập pháp mà không thể là thẩm quyền của ai khác. Cũng giống như thế, vấn đề quy định tăng nặng trách nhiệm hình sự, lựa chọn hình phạt hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với những hành vi xử sự xã hội nào đó đã được quy định trong Bộ luật hình sự cũng thuộc thẩm quyền của nhà lập pháp. .
Tuy nhiên, về mặt thực tiến thì những lý luận khoa học pháp lý, cho đến nay cũng chỉ được phổ biến về mặt lý thuyết và chưa chưa được đề cập và thừa nhận chung rộng rãi trong Khoa học Luật hình sự và trong Lý luận về chính sách hình sự. Và cũng trong các lĩnh vực lý luận khác được nhà nước quan tâm thì các phạm trù “hình sự hóa, phi hình sự hóa”, “tội phạm hóa, phi tội phạm hóa” cũng chưa chưa được biết đến.
Với những logic đó, vấn đề hình sự hóa hay phi hình sự hóa hiện nay trong các quan hệ thực tiến hay về kinh tế, dân sự có thể được hiểu một cách khái quát và chính xác đó chính là việc nhà lập pháp lựa chọn và quyết định đưa vào hay loại trừ khỏi phạm trù hình sự, những quan hệ pháp luật kinh tế hay dân sự nào đó hoặc quy định tăng nặng trách nhiệm hình sự, hình phạt hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt đối với những loại hành vi nào đó xâm hại đến các quan hệ kinh tế, dân sự nhất định đã được luật hình sự bảo vệ.
4. Hoàn thiện chính sách hình sự nhằm bảo vệ quyền con người theo Hiến pháp năm 2013 :
Hiến pháp năm 2013 là bản văn chính trị pháp lý kế thừa những thành tựu của Hiến pháp năm 1992 và phát triển sâu sắc những giá trị mới về quyền con người, quyền công dân, trong đó có các quyền con người, quyền công dân của NCTN trong các lĩnh vực đời sống và tư pháp được xác lập bảo hộ, bảo đảm bởi Hiến pháp và pháp luật.
Ý nghĩa to lớn của vấn đề không chỉ thể hiện ở vị trí quyền con người, quyền công dân đã được xác lập một cách trang trọng ở Chương II Hiến pháp và có số lượng điều nhiều hơn các bản Hiến pháp trước (36 điều), mà còn là những quyền hiến định được minh họa rõ ràng ý nghĩa và vị thế mới, với nhiều nội dung cơ bản mang tính thời đại, thể hiện:
Thứ nhất, như nêu trên, Hiến pháp năm 1992 chỉ xác lập sự “tôn trọng” quyền con người và phải thông qua quy định về quyền công dân (Điều 50). Hiến pháp năm 2013, một mặt tách bạch quyền con người và quyền công dân, với ý nghĩa: ngoài chủ thể quyền công dân, còn bao hàm chủ thể quyền con người là các chủ thể không phải công dân (người nước ngoài, người không quốc tịch). Mặt khác, cùng với quyền công dân, quyền con người được dẫn lập bởi bốn cụm từ rất trang trọng “công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm” theo Hiến pháp và pháp luật. Như vậy, hiểu theo nghĩa khái lược, quyền con người là tất cả những quyền tự nhiên của con người được công nhận bởi Hiến pháp, không phải được đặt ra bởi Hiến pháp.
Thứ hai, trong Nhà nước pháp quyền theo Hiến pháp năm 2013, quyền con người, quyền công dân được đề cao, bảo đảm thực hiện, nhưng không có nghĩa những quyền đó được hành xử một cách vô giới hạn và phi luật pháp. Vì vậy, Hiến pháp cũng quy định rõ các quyền này có thể bị hạn chế trong trường hợp cần thiết do luật định, và chỉ có thể bởi luật, chứ không thể bằng những văn bản pháp quy dưới luật. Điều đó cũng có nghĩa là Nhà nước phải có trách nhiệm cụ thể hóa bằng luật và ban hành đầy đủ luật để xác lập và tạo điều kiện cho mọi người thực thi quyền con người, quyền công dân của mình.
Thứ ba, so với Hiến pháp năm 1992, những quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo hộ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự là bước đổi mới căn bản, toàn diện. Nguyên tắc suy đoán vô tội theo Hiến pháp năm 1992 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của
Thứ tư, kiểm soát quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp hình sự là bước phát triển mới, rất tích cực của Hiến pháp năm 2013, thể hiện trên các mặt sau đây: (i) Kế thừa những nội dung cơ bản về nguyên tắc tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và pháp luật từ Hiến pháp năm 1992 – bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới, đã thiết lập nền tảng tiền đề để xây dựng và phát triển nhà nước pháp quyền “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” (Điều 12), Hiến pháp năm 2013 tiếp tục phát triển những giá trị đó lên một tầm cao mới: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ” (Điều 8), khẳng định vị thế tối cao của Hiến pháp và pháp luật trên nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của mọi cá nhân, tổ chức xã hội và tổ chức nhà nước.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết: Hiến pháp năm 2013;