Chiến dịch Hòa Bình là một cuộc chiến đấu khốc liệt và mang tính lịch sử của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Chiến dịch đã diễn ra trên nhiều mặt trận, nhưng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn về chiến dịch này, chúng ta cần phải tìm hiểu về bối cảnh lịch sử và các sự kiện hàng đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Mục lục bài viết
1. Hoàn cảnh của Chiến dịch Hòa Bình:
1.1. Kế hoạch của Pháp:
Sau thất bại ở chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950 và đường 18, Hà Nam Ninh, quân Pháp đang bị đánh mạnh và phòng ngự bị động. Chi phí cho chiến tranh Đông Dương càng ngày càng nặng, còn vượt qua những chi phí kiến thiết mà nước Pháp đang cần. Do đó, tướng Pháp Jean de Lattre de Tassigny cần một hành động hiệu quả và một thắng lợi để có tiếng vang gây thiện cảm ở quốc hội Pháp.
Mùa đông năm 1951, Pháp mở cuộc tiến công ra Hòa Bình, lập phòng tuyến sông Đà để nối lại “Hành lang Đông – Tây”, thực hiện tăng cường khả năng phòng thủ đồng bằng Bắc Bộ, cắt đứt đường liên lạc giữa chiến khu
Cuối tháng 10 năm 1951, de Lattre đã thống nhất với Raoul Salan về đề xuất đánh chiếm Hoà Bình. Từ Hoà Bình, Pháp đã tiến công và chiếm được Chợ Bến và Tu Vũ một cách dễ dàng, không có sự kháng cự của QĐNDVN.
Ngày 15 tháng 11 năm 1951, tướng Salan tuyên bố Pháp kiểm soát được Hoà Bình, khoá cửa ngõ tiếp tế và giao thông của Việt Minh giữa đồng bằng và
1.2. Kế hoạch của Việt Minh:
Bộ Chính trị quyết định tiến hành chiến dịch tấn công quân Pháp ở Hòa Bình để tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng thị xã Hòa Bình, đập tan phòng tuyến sông Đà và tạo điều kiện phát triển chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ. Tổng quân uỷ đề nghị Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh cho mở chiến dịch tại Hoà Bình.
Bộ Tư lệnh có mời Mai Gia Sinh, cố vấn Trung Quốc tham gia. Cố vấn Trung Quốc khuyên nên hoạt động nhỏ và phân tán để hạn chế sức mạnh của máy bay và pháo địch, họ lo ngại phải chịu trách nhiệm nếu tiếp tục lao vào những trận đánh lớn mà thất bại. Tuy nhiên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn quyết tâm tiến hành chiến dịch.
Trung ương chủ trương mở một cuộc tiến công lớn trên cả hai mặt trận: tập trung chủ lực ở hướng chính là Hòa Bình và mạnh bạo đưa một bộ phận chủ lực vào hoạt động trong vùng địch hậu ở đồng bằng Bắc Bộ nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực, tiến tới phá tan kế hoạch chiếm đóng Hoà Bình của Pháp, đẩy mạnh chiến tranh du kích trọng tâm là đồng bằng Bắc Bộ.
Tổng quân ủy mở chiến dịch Hoà Bình sử dụng ba Đại đoàn 308, 312, 304 vây hãm và tiêu diệt quân cơ giới ở mặt trận Hoà Bình. Hai đại đoàn 320, 316 phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân phá “bình định” phát triển chiến tranh ở vùng sau lưng địch.
2. Diễn biến chiến dịch Hòa Bình:
Sau khi đánh bại tạm thời quân Pháp tại Điện Biên Phủ vào năm 1954, Việt Nam đã chính thức giành độc lập và trở thành một quốc gia độc lập. Tuy nhiên, trước đó, cuộc chiến giành độc lập đã kéo dài trong nhiều năm và đã có nhiều chiến dịch quan trọng. Trong đó, chiến dịch Hòa Bình là một trong những chiến dịch thành công nhất của quân và dân ta.
Chiến dịch Hòa Bình bắt đầu vào ngày 10/12/1951, khi Trung đoàn 209 và Đại đoàn 312 di chuyển đến Ninh Mít, phối hợp với hai tiểu đoàn địa phương để chặn đánh một tiểu đoàn dù GM4 tại làng Chúc ở phía Nam Ba Vì. Trong trận đánh này, hai đại đội địch đã bị tiêu diệt và số lượng địch còn lại đã bỏ chạy về Chẹ.
Sáng ngày 11/12/1951, một tiểu đoàn địch đã tấn công khu vực Gốc Bộp và điểm cao 306, nhưng đã bị quân ta chặn đánh và tiêu diệt hai đại đội. Bộ phận địch phía sau đã phải lùi lại Yên Lệ. Trên đường số 87, hai tiểu đoàn địa phương đã thực hiện phục kích và tiêu diệt hai đại đội bộ binh và một trung đội cơ giới địch ở Trung Thượng – Hạm Giá.
Ngày 23/2/1952, quân địch đã rút khỏi thị xã Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình hoàn toàn được giải phóng. Tỉnh Hòa Bình lại một lần nữa trở thành nơi ghi dấu ấn thất bại thảm hại của quân đội Pháp. Ngày 24/2/1952, địch ở Ao Trạch đã tiếp tục rút về Đồng Bái. Trên quãng đường này, Trung đoàn 9 và Đại đoàn 304 đã xuất kích kịp thời, chặn đánh một bộ phận địch và tiêu diệt gần hai đại đội địch. Trung đoàn 57 và Đại đoàn 304 đã sử dụng hỏa lực để bắn đuổi và tiêu diệt thêm hàng chục tên địch.
Ngày 25/2/1952, quân địch đã tiếp tục rút khỏi Đồng Bái về Xuân Mai. Trong suốt 3 ngày đánh địch rút lui, quân ta đã tiêu diệt 6 đại đội địch, phá hủy 23 xe quân sự và thu được trên 100 tấn đạn dược, quân trang, và quân dụng. Ngày 25/2/1952, Tổng Quân ủy đã quyết định kết thúc Chiến dịch Hòa Bình. Sau 2,5 tháng chiến đấu liên tục, quân ta đã phá kế hoạch chiếm đóng Hòa Bình của địch, giải phóng khu vực Hòa Bình và sông Đà với diện tích trên 1.000 km2 và 20.000 dân.
Tại mặt trận Hòa Bình, quân và dân ta đã tiêu diệt được 6.012 tên địch, thu được 24 khẩu pháo các loại, 788 khẩu súng, 98 máy vô tuyến điện, phá hủy 12 khẩu pháo, bắn rơi 9 máy bay và bắn chìm vali tàu, tàu và xuồng. Quân và dân ta cũng đã phá hủy 246 xe quân sự. Mặt trận địch hậu (Trung Du, Liên khu 3) đã loại khỏi vòng chiến đấu 15.237 tên địch, thu được 6.126 khẩu súng các loại và giải phóng 4.000 km2 với hơn 1 triệu dân. Tổng số tàn quân của địch là 21.249 người, trong đó có 14.030 người đã thiệt mạng.
Tuy nhiên, chiến dịch Hòa Bình cũng đã gây ra nhiều tổn thất cho quân và dân ta, với hàng ngàn binh sĩ và dân thường đã hy sinh trong chiến dịch này. Tuy nhiên, những nỗ lực và hy sinh của quân và dân ta đã mang lại chiến thắng quan trọng và xây dựng nên tinh thần đoàn kết và quyết tâm của toàn dân trong việc đấu tranh cho độc lập và tự do của dân tộc.
Chiến dịch Hòa Bình đã có tầm ảnh hưởng lớn đến lịch sử quân sự Việt Nam và đã trở thành một trong những chiến dịch lịch sử quan trọng nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân ta. Chiến dịch đã cho thấy sự quyết tâm và nỗ lực của quân và dân ta trong việc giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.
3. Về ý nghĩa Chiến dịch Hòa Bình:
Đại tướng Tổng Tư lệnh đã phối hợp chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích trên quy mô lớn trong Chiến dịch Hòa Bình, đánh bại âm mưu cố gắng giành lại quyền chủ động của Đờ-lát đờ Tát-xi-nhi. Chiến dịch này đã thành công trong việc đưa quân đội đến trình độ chiến thuật mới và khả năng chiến đấu liên tục, dài ngày trên hai mặt trận rộng lớn và phức tạp. Theo nhà sử học Béc-na Phôn, Chiến dịch Hòa Bình đã gây tổn thất về sinh mạng và trang bị không kém chiến dịch Biên Giới và chiến dịch Điện Biên Phủ của quân Pháp ở Đông Dương.
Để phát huy thành công của Chiến dịch Hoà Bình, các binh sĩ và dân trong vùng du kích và vùng tạm chiếm cần tập trung xây dựng căn cứ du kích, tiến hành chiến tranh du kích, tiêu diệt quân địch, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu của địch và đẩy lui chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của chúng. Đồng thời, nhân dân trong các vùng tự do và vùng du kích cần tích cực thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm của Chính phủ, đồng thời tăng cường sức mạnh kháng chiến để giành thắng lợi.
Nhờ tinh thần, kinh nghiệm của Chiến dịch Hòa Bình, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc trong tỉnh, tỉnh đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào trong các lĩnh vực KT-XH, QP-AN và xây dựng hệ thống chính trị. Từ khi tách tỉnh, nền kinh tế đã vượt qua những khó khăn ban đầu và đang phát triển mạnh mẽ, đứng đầu các tỉnh miền núi phía Bắc về tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, sản xuất phát triển, Giá trị Tổng sản phẩm tăng cao, kết cấu hạ tầng và đô thị nông thôn được đổi mới, thu nhập bình quân đầu người và chất lượng cuộc sống người dân cải thiện. Công tác quốc phòng, quân sự địa phương được triển khai toàn diện và hiệu quả, năng lực lãnh đạo tăng cao.
4. Kết quả chiến dịch Hòa Bình:
Chiến dịch tiến công Hòa Bình diễn ra từ 10/12/1951 đến 25/2/1952. Trong gần 3 tháng, quân ta tấn công liên tiếp địch ở sông Đà và Đường số 6, vây hãm địch ở Thị xã Hòa Bình. Cùng với mặt trận chính diện (Hòa Bình), các đơn vị ta phối hợp với lực lượng địa phương và nổi dậy phá tề trừ gian, phát triển chiến tranh du kích, tiêu diệt nhiều địch, khôi phục và mở rộng nhiều căn cứ du kích. Ngày 23/2/1952, quân Pháp phải rút khỏi Hòa Bình.
Chiến dịch tiến công Hòa Bình kết thúc thành công, loại bỏ hơn 6.000 quân địch, bắn rơi 9 máy bay, chìm 17 tàu và phá hủy gần 800 súng. Chiến dịch giúp giải phóng khu vực Hòa Bình – Sông Đà, duy trì đường giao thông từ căn cứ địa Việt Bắc đến các liên khu III, IV và đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch. Chiến dịch này cũng góp phần làm thất bại âm mưu của thực dân Pháp. Quân đội nhân dân Việt Nam diệt 15.000 tên địch, tiêu diệt, bức hàng, bức rút hơn 1.000 đồn bốt. Chiến dịch lịch sử này cũng là cuộc tập dượt lớn cho chiến dịch quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ năm 1954 và khẳng định sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo của Đảng.
Sau thất bại tại mặt trận Hòa Bình (Đông Xuân 1951-1952), thực dân Pháp trở nên thụ động hơn về chiến lược. Tướng Nava, Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương (1953-1954), đã thừa nhận trong hồi ký của mình rằng: “Chiến dịch Hòa Bình đã giữ chân các binh đoàn chủ lực cơ động tinh nhuệ của chúng ta ở xa đồng bằng trong một thời gian dài, tạo điều kiện cho Việt Minh đưa các binh đoàn chủ lực vào đồng bằng hoạt động và có chiến thắng quan trọng”.