Theo nguyên tắc chung, nếu người mất có di chúc thì tài sản sẽ được chia theo di chúc; nếu không có hoặc di chúc không hợp pháp, tài sản của người mất sẽ được chia theo pháp luật.
Tóm tắt câu hỏi:
Bố mẹ tôi có một miếng đất. Mẹ tôi đã mất năm 2008, bố tôi mất năm 2013 và không để lại di chúc. Lúc còn sống, bố tôi đã chia phần cho các anh chị em tôi nhưng việc chia này không có giấy tờ gì. Các anh chị em tôi hòa thuận, không có tranh chấp. Tất cả chúng tôi gồm bảy anh chị em, chia bảy phần nhưng không bằng nhau. Miếng đất này đã có sổ đỏ nhưng hiện vẫn đứng tên bố tôi. Đất này vừa là thổ cư, vừa là đất nông nghiệp ở Đồng Nai. Xin hỏi theo pháp luật thì đất có chia lại như bố tôi đã chia trước đây không? Mong câu trả lời sớm nhất của Luật sư! Xin cảm ơn!
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Theo nguyên tắc chung, nếu người mất có di chúc thì tài sản sẽ được chia theo di chúc; nếu không có hoặc di chúc không hợp pháp, tài sản của người mất sẽ được chia theo pháp luật.
Điều 676 “Bộ luật dân sự 2015” quy định cụ thể các hàng thừa kế bao gồm:
“a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại”.
Căn cứ quy định trên, các con không phân biệt trai gái, đã lập gia đình hay chưa đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Như vậy, tất cả 7 người con của bố mẹ bạn đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất và các chị em gái của bạn dù đã đi lấy chồng nhưng vẫn sẽ được hưởng một phần trong khối di sản này.
Theo quy định, người thừa kế phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Theo mục 2.4 Mục I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc chia tài sản chung trong trường hợp hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế như sau:
“a. Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:
a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.
a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.”
Như vậy, trong trường hợp của bạn, bảy anh chị em nhà bạn đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất, và sẽ cùng được chia tài sản với số phần bằng nhau. Tuy nhiên, nếu các anh chị em trong nhà đều chung sống hòa thuận, không có tranh chấp thì miếng đất của bố mẹ bạn vẫn được chia như trước đây bố mẹ bạn đã chia cũng như theo sự đồng thỏa thuận của các anh chị em trong gia đình.
>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568