Chia tài sản chung khi vợ chồng sống chung với gia đình? Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình?
Ở Việt Nam, phần lớn các trường hợp là cả hai vợ chồng cùng chung sống với gia đình nhà chồng (một số ít trường hợp ở rể) khi chung sống hòa thuận, vui vẻ, vợ chồng chung tay gây dựng, tạo lập khối tài sản chung của gia đình mà không có sự phân định rạch ròi. Đến khi có những bất đồng, xung đột dẫn tới ly hôn và chia tài sản thi người vợ, chồng thường bị thiệt thòi khi gia đình nhà chồng, vợ thường bảo vệ lợi ích của gia đình mình, trong khi người vợ, chồng khó có thể chứng minh được công sức đóng góp, duy trì, phát triển khối tài sản chung, nên quyền lợi thường bị ảnh hưởng. Xuất phát từ thực tiễn đó, quy định về chia tài sản của vợ chồng trong trường hợp sống chung với gia đình ra đời đã giải quyết được vấn đề trên, bảo vệ quyền lợi cho người vợ hoặc người chồng khi sống chung với gia đình nhà chồng, nhà vợ. Bài viết dưới đây của Luật Dương Gia sẽ cung cấp cho bạn đọc nội dung liên quan đến: “Chia tài sản chung khi vợ chồng sống chung với gia đình”
Luật sư tư vấn luật miễn phí qua tổng đài điện thoại: 1900.6568
– Cơ sở pháp lý:
+ Luật hôn nhân và gia đình 2014.
+ Bộ luật dân sự 2015.
Mục lục bài viết
1. Chia tài sản chung khi vợ chồng sống chung với gia đình.
– Xác định tài sản của vợ chồng khi ly hôn trong tài sản chung của gia đình
a. Căn cứ xác định tài sản của gia đình
– Theo quy định tại Điều 212 BLDS năm 2015 quy định: Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.
– Các thành viên gia đình được hiểu theo điều luật là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng và sống chung với nhau. Chính vì thế, căn cứ xác định tài sản của gia đình trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình cũng sẽ được áp dụng.
– Như vậy theo quy định, thì tài sản của gia đình gồm tài sản của các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của pháp luật. Như vậy, căn cứ để xác định tài sản gia đình là dựa vào sự đóng góp tài sản của các thành viên trong gia đình đó. Là tài sản chung của cả gia đình nên việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận.
– Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác. Tuy nhiên, trong thực tiễn xác lập các giao dịch loại này thì các chủ thể phải chứng minh là mục đích của giao dịch vì lợi ích của những người mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên nếu trong gia đình có những người như thế. Nếu nguyên tắc thỏa thuận không áp dụng được thì quyền sở hữu của mỗi thành viên gia đình được thực hiện tương ứng phần quyền sở hữu của mình.
– Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 213 của BLDS năm 2015.
b. Căn cứ xác định tài sản của vợ chồng khi ly hôn trong tài sản chung của gia đình
– Pháp luật Việt Nam hiện hành, khi nói về quan hệ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, hầu như không quy định nhiều đến trường hợp vợ chồng chung sống với nhiều người khác dưới cùng một mái nhà, dù trường hợp này còn khá phổ biến ở Việt Nam; nhưng khi nói về các quan hệ tài sản giữa vợ chồng sau khi hôn nhân chấm dứt do ly hôn lại có ghi nhận trường hợp đó. Điều 61
– Thứ nhất: Nếu như tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của vợ chồng căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được là cách mô tả ngắn gọn một tình trạng mà trong đó việc thiết lập bằng chứng về sự đóng góp của vợ chồng, cho phép xác định chính xác sự đóng góp đó bằng con số, là không thể được.
– Thứ hai: Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần tức là tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể được xác định bằng hiện vật là các tài sản hiện hữu mà vợ chồng đóng góp khi sống chung với gia đình như các vật dụng thiết yếu cho cuộc sống như hàng ngày: bàn ghế, lò vi sóng ,hay bằng một số tiền nhất định thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
2. Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình
– Trong trường hợp tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được
Khoản 1, Điều 61, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định, theo đó: trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được, thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như dựa vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
– Trong trường hợp tất cả các thành viên gia đình đều hoạt động kinh tế chung, thì thông thường mỗi người có một phần ngang nhau đối với khối tài sản chung của gia đình. Song, trong các trường hợp ly hôn, thời gian chung sống của người vợ, chồng rời khỏi gia đình với những thành viên khác trong gia đình thường không đủ dài để có thể nói rằng người này có đóng góp như những người khác và do đó, được hưởng một phần bằng với phần của những người khác.
– Điều kiện và khả năng đáp ứng điều kiện đồng thời cũng là tiêu chí đánh giá tính hợp lý, thoả đáng của sự thoả thuận giữa vợ hay chồng rời khỏi gia đình và các thành viên còn lại của gia đình, cũng như, trong trường hợp không có thoả thuận, thì đó cũng là những yếu tố mà thẩm phán có thể dựa vào để ra quyết định về việc chia tài sản chung của gia đình cho vợ, chồng. Vợ hay chồng rời khỏi gia đình, có thể được giao cả một căn nhà, nếu gia đình sung túc; nhưng có thể chỉ nhận được một số tiền hoặc một số tài sản thiết yếu cho thời kỳ đầu của cuộc sống riêng, nếu gia đình chỉ có thể cung cấp chừng đó.
– Khi đã tách biệt được phần tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình, phần quyền đó được cụ thể hóa bằng hiện vật hoặc bằng tiền thì tiếp theo các hiện vật và tiền đó sẽ được nhập vào các tài sản chung khác của vợ chồng. Và toàn bộ khối tài sản ấy là tài sản của vợ chồng cuối cùng được phân chia.
– Trong điều kiện không có quy định rõ ràng của luật, các hình thức đóng góp được ghi nhận và dùng làm căn cứ để tính toán công sức đóng góp của vợ ,chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng giống như trong trường hợp thanh toán tài sản chung của vợ chồng theo luật chung: lao động tạo ra của cải, nội trợ, chuyển tài sản riêng thành tài sản chung,… Cuộc sống chung của gia đình không thể tự tay một bên vợ hoặc một bên chồng có thể xây đắp được, mà nó phải là kết quả đóng góp của các thành viên trong gia đình.
– Tại Điểm b, Khoản 4, Điều 7
– Sự đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung của gia đình có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức. Việc đánh giá công sức đóng góp chủ yếu được thực hiện bằng con đường thoả thuận, nếu không thoả thuận được thì một bên hoặc cả hai bên có thể yêu cầu Toà án giải quyết. Giả sử Toà án được yêu cầu giải quyết, thì sẽ có hai vấn đề đáng chú ý mà Toà án phải xem xét như các vấn đề thuộc cơ sở của việc đánh giá công sức đóng góp: Xác định các hình thức đóng góp và xác định cách đánh giá công sức đóng góp.
+ Hình thức đóng góp
Đóng góp vào một khối tài sản, trong quan niệm rộng nhất, được hiểu theo hai nghĩa: một mặt, đó là sự đóng góp vào việc làm giàu cho khối tài sản ấy (đóng góp tích cực); mặt khác, đó có thể là việc làm hao hụt đi khối tài sản áy
+ Đóng góp tích cực
Đầu tiên, hình thức đóng góp tích cực phải kể đến đó là hoa lợi của tài sản riêng của vợ, chồng. Nhưng liệu có thể coi việc thu hoạch hoa lợi từ tài sản riêng như một cách đóng góp của chủ sở hữu (riêng) vào sự phát triển của khối tài sản chung?. Nói chung, hoa lợi từ một tài sản có công dụng chủ yếu là phục vụ cho cuộc sống vật chất hàng ngày của chủ sở hữu là vợ, chồng, nhưng trong phần lớn trường hợp, hoa lợi, lợi tức được chuyển thành vật tiêu hao, tiêu dùng cho gia đình. Một phần hoa lợi, lợi tức được dùng để bảo quản, sửa chữa nhỏ tài sản sinh lợi. Tất nhiên, vẫn có trường hợp đặc thù mà hoa lợi, lợi tức được thu hoạch một lần cho một khoảng thời gian dài, và trở thành một tài sản có giá trị lớn.
+ Đóng góp tiêu cực
Khi chia tài sản thì nguyên tắc bình đẳng về giá trị là nguyên tắc được coi trọng hàng đầu. Với nguyên tắc bình đẳng về giá trị, có người nhận được một hoặc nhiều tài sản đồng bộ, có người nhận được một hoặc nhiều tài sản đồng bộ khác, có người không có tài sản mà chỉ nhận được một số tiền chênh lệch do những người nhận nhiều tài sản bằng hiện vật thanh toán.