Chế định hôn nhân gia đình thời phong kiến mang những giá trị tích cực. Hệ thống pháp luật hiện nay vẫn còn tiếp thu những tinh hoa này để áp dụng trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật hôn nhân gia đình phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay của đất nước ta.
Để hiểu rõ giá trị đương đại của chế định hôn nhân gia đình trong QTHL và HVLL, trước tiên ta cần tìm hiểu khái niệm “giá trị” là gì? Nó là vấn đề xuyên suốt luận văn và góp phần làm rõ phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Giá trị được hiểu là: “Cái làm cho một vật có lợi ích, có ý nghĩa, là đáng quý về một mặt nào đó”.
Vậy giá trị đương đại của chế định hôn nhân gia đình trong QTHL và HVLL được hiểu là những ích lợi, ý nghĩa đáng quý hai Bộ luật trên mang lại mà hệ thống pháp luật hiện nay vẫn còn tiếp thu những tinh hoa từ Bộ luật để áp dụng trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật hôn nhân gia đình phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay của đất nước ta.
Qua việc nghiên cứu hai Bộ luật QTHL và HVLL, ta thấy được những giá trị to lớn mà hai Bộ luật mang lại cũng nhưng những quy định tiến bộ độc đáo của hai Bộ luật. Từ đó ta có thể thấy được những giá trị đương đại của chế định hôn nhân gia đình trong QTHL và HVLL được thể hiện qua các nội dung sau:
Mục lục bài viết
1. Về quy định kết hôn:
QTHL và HVLL một mặt thì tiếp thu những phong tục tập quán của dân tộc nhưng mặt khác vẫn bảo vệ quyền lợi của đôi bên nam nữ trong việc xác lập quan hệ hôn nhân.
Một là, độ tuổi kết hôn của các bên nam nữ. Trong QTHL không có quy định về độ tuổi kết hôn. Tuy nhiên trong sách Thiên nam dư hạ tập, một văn bản nhan đề Hồng Đức hôn giá lễ nghi có ghi: “Con trai từ 18 tuổi, con gái từ 16 tuổi trở lên mới được thành hôn..”. Điều này chứng tỏ: “Nhà làm luật thời Lê đã biết thích ứng các nghi lễ của Khổng giáo cho hợp với tình trạng xã hội và quyền lợi của dân tộc vừa tránh nạn tảo hôn, vừa không nhất thiết gò bó theo khuôn khổ cố định của lễ giáo Trung Hoa”. Quy định độ tuổi này là hợp lý trong điều kiện xã hội lúc đó, vì một mặt đảm bảo mục đích của hôn nhân là có con nối dõi, một mặt khác là hạn chế nạn tảo hôn.
Đồng thời, HVLL cũng cấm Nam nữ kết hôn khi còn quá nhỏ. Điều 94 Lệ 2 HVLL quy định: “Hôn nhân trai gái đều có định ngày cả, có kẻ chỉ bụng cắt áo đơn cho là thành thân, cái đó cấm hoàn toàn” . Hoặc việc quyết định cưới gả khi con cái đang trong bào thai cũng bị cấm.
Ta có thể thấy, các nhà làm luật thời Lê và thời Nguyễn đã có những tư tưởng tiến bộ vượt thời đại trong việc quy định về tuổi kết hôn, họ đã thấy những điểm quan trọng tâm sinh lý của hai bên nam nữ để đảm bảo được mục đích của hôn nhân là phát triển bền vững giống nòi. Đây là điểm tiến bộ vẫn được duy trì và phát triển trong pháp luật ngày nay. Là một trong các điều kiện kết hôn được quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”.
Hai là, việc cấm kết hôn giữa những người trong họ hàng. QTHL và HVLL có quy định trường hợp này xuất phát từ các lý do khác nhau: vì luân thường đạo lý, thuần phong mỹ tục, vì sức khỏe nòi giống. Điều 319 QTHL quy định: “Người vô loại lấy cô, dì, chị em gái, kế nữ con riêng của vợ, người thân thích đều phỏng theo luật gian dâm mà trị tội” . Tượng tự, Điều 100, 101, 102 HVLL cũng quy định cấm kết hôn giữa những người cùng họ và cùng chung một ông tổ, kể cả giữa những người trong họ bậc trên và bậc dưới, cần lấy vợ cả và vợ lẽ của bà con làm vợ mình. Quy định này đảm bảo hôn nhân trong xã hội phong kiến vừa có thể duy trì nòi giống, vừa đảm bảo những đứa trẻ sinh ra phát triển bình thường, khỏe mạnh không bị những dị tật bẩm sinh do cận huyết thống gây ra, trên cơ sở đó bảo vệ giá trị truyền thống bằng luân lý đạo đức. Cho đến thời điểm bây giờ thì quy định đó cũng có sự tương đồng với quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình hiện nay. Cụ thể, tại Điểm d Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về các hành vi bị cấm:
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. Điều đó cho thấy các nhà làm luật thời Lê và Nguyễn đã có tầm nhìn mà đến bây giờ vẫn được áp dụng.
Ba là, về thủ tục kết hôn. Nhà làm luật triều Lê và triều Nguyễn đều tôn trọng và thừa nhận những phong tục tập quán tốt đẹp, đặc sắc vốn được ưa chuộng của dân tộc trong việc quy định thủ tục kết hôn. Theo đó, nghi lễ kết hôn gồm: Lễ nghị hôn (lễ chạm mặt); Lễ định thân (vấn danh), Lễ nạp trưng (lễ dẫn đồ cưới), Lễ thân nghinh (lễ đón dâu). Luật Hôn nhân và gia đình hiện nay chỉ quy định việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện, nếu không sẽ không có giá trị pháp lý (Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Tuy nhiên, thực tế vẫn tồn tại các nghi lễ kết hôn được lưu truyền từ đời này sang đời khác và dần trở thành phong tục cưới hỏi của người dân Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay các thủ tục, nghi lễ kết hôn đó được đơn giản bớt sao cho phù hợp với thực tế đời sống.
* Quan hệ giữa vợ chồng Theo quan niệm Nho giáo, gia đình có vị trí đặc biệt quan trọng trong xã hội, là nền tảng của xã tắc. Địa vị của người phụ nữ theo triết lý Nho giáo rất thấp kém. Họ không có quyền gì trong gia đình mà bị ràng buộc bởi thuyết tam tòng. Do đó, theo quan niệm Nho giáo hôn nhân là sự chuyển giao uy quyền đối với người phụ nữ từ người cha sang người chồng. Tuy nhiên, Bộ luật QTHL và HVLL đã phản ánh một cách khá trung thực và điều chỉnh hợp lý mối quan hệ giữa vợ và chồng phù hợp với thực tế xã hội Việt Nam. Vì vậy, địa vị pháp lý của người vợ được cải thiện hơn hẳn so với quan niệm Nho giáo. Điều đó được thể hiện qua các nội dung sau:
- QTHL và HVLL đều có những quy định ràng buộc trách nhiệm của người chồng đối với gia đình, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ
Các quy định hôn nhân và gia đình trong QTHL và HVLL ít nhiều đều hướng đến việc bảo vệ trật tự gia đình phong kiến. Điểm tiến bộ ở cả hai bộ luật này đó là đều có quy định hình phạt nghiêm khắc đối với việc người chồng bỏ phế gia đình, không thực hiện nghĩa vụ giúp đỡ vợ nuôi con cái và ngược lại vợ cũng có nghĩa vụ giúp đỡ chồng (Điều 308, 309 QTHL và Lệ 2 Điều 108 HVLL) Những quy định này đã ràng buộc người chồng phải có trách nhiệm với gia đình đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của người vợ.
Trong quan hệ vợ chồng, mặc dù giữ quyền gia trưởng nhưng người chồng không được tùy tiện đánh vợ, đối xử tàn bạo với vợ. Hành vi đánh vợ của người chồng sẽ bị xử lý theo pháp luật. QTHL quy định, trong trường hợp người chồng đánh vợ bị thương thì hình phạt đối với người chồng sẽ nhẹ hơn đánh người ngoài ba bậc, tiền đền mạng được bớt ba phần. Cố ý giết vợ thì được giảm tội một bậc, nếu có tội mà chồng đánh không may bị chết thì sẽ xử khác, ngộ sát thì không phải tội. Đánh chết vợ là bất mục nhưng với hành vi đó của người chồng bị xử nhẹ hơn hẳn so với hành vi của người vợ. Đồng thời, Điều 284 HVLL cũng quy định trường hợp người chồng đánh vợ bị thương thì người vợ không được tự ý dứt bỏ chồng mà phải thẩm vấn hai vợ chồng xem có thuận tình ly dị mới cho ly dị. Nếu đánh chết thì bị xử tội giảo. Ngoài ra, pháp luật thời Nguyễn còn không cho phép gia đình chồng có quyền xâm phạm đến thân thể của người vợ. Ông bà, cha mẹ là những bậc bề trên có quyền dạy bảo khi con dâu trong nhà không phải phép, nhưng lạm dụng quá mức quyền này thì sẽ bị trừng phạt (Điều 288 HVLL).
Mặc dù hình phạt đối với người chồng trong trường hợp đánh vợ không tương xứng với hình phạt nếu người vợ đánh chồng. Tuy nhiên, theo đạo đức Nho giáo, người chồng có quyền dạy bảo người vợ trong vai trò người gia trưởng, ngược lại người vợ phải vâng lời chồng, không được phép chống đối lại chồng. Bởi vậy, sự trừng phạt đối với người chồng khi có hành vi xâm phạm quyền được bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người vợ là cách thức hạn chế quyền gia trưởng của người chồng, đó là đòi hỏi tất yếu, rất cần thiết không chỉ trong xã hội phong kiến thời Lê và thời Nguyễn mà ngay trong xã hội ngày nay để chống nạn bạo lực gia đình. Đặc biệt hơn nữa, pháp luật thời Nguyễn còn không cho phép gia đình chồng có quyền xâm phạm đến thân thể của người vợ. Có lẽ các nhà làm luật đã lường trước được cảnh mẹ chồng nàng dâu trong gia đình phong kiến. Đây là quy định đặc biệt tiến bộ trong pháp luật thời Nguyễn để vào vệ sức khỏe và hạnh phúc của người vợ.
Pháp luật triều Lê và triều Nguyễn đều thừa nhận chế độ đa thế nên người đàn ông được phép lấy nhiều vợ. Tuy nhiên cả hai Bộ luật Quốc triều và HVLL đều có các quy định để xác lập trật tự thê thiếp, bảo vệ quyền lợi của người vợ. Về thứ bậc trong gia đình người vợ lẽ sẽ không thể thay thế được địa vị của người vợ cả. Người vợ lẽ phải tôn trọng trật tự thê thiếp và không được đảo lộn trật tự đó. (quy định tại Điều 309 QTHL và Điều 96 HVLL).
Ngoài ra, QTHL không những quy định hình phạt đối với người vợ khi có hành vi gian dâm hay thông gian mà còn quy định hình phạt đối với người chồng khi có hành vi đó. Điều 401 QTHL quy định: “Gian dâm với vợ người khác thì xử tội lưu hay tội chết, với vợ lẽ người khác thì giảm một bậc. Với người quyền quý thì sẽ xử cách khác, kẻ phạm tội đều phải nộp tiền tạ như luật định”. Như vậy hành vi gian dâm của người đàn ông bị trừng phạt rất nghiêm khắc, có thể dẫn tới tội chết. Đối với hành vi thông gian tức là hành vi ngoại tình đi lại với nhau chứ không phải là bắt được gian dâm nên cách xử lý có nhẹ hơn. Sự trừng phạt này vừa có tác dụng bảo vệ quyền lợi gia đình, của người vợ, vừa có sức răn đe để hạn chế vi phạm. Việc áp dụng chế tài hình sự nghiêm khắc trong các trường hợp này có tính răn đe thiết thực, có hiệu quả trong việc ngăn chặn tệ nạn ngoại tình. Đây là biện pháp đáng để suy nghĩ trong việc xây dựng pháp luật hạn chế tình trạng ngoại tình vi phạm chế độ một vợ một chồng phổ biến hiện nay.
- QTHL đã thừa nhận năng lực bình đẳng của vợ chồng trong việc quản lý tài sản gia đình
Quyền bình đẳng về tài sản giữa vợ và chồng biểu hiện rõ nhất qua quyền sở hữu tài sản vợ chồng. Quyền sở hữu tài sản là quyền có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi vì: “bản chất của các mối quan hệ về sở hữu tài sản là cơ sở để hiểu những quyền lợi và nghĩa vụ của từng cá nhân thành viên trong một gia đình và địa vị tương ứng của họ trong đó...”. Theo quy định tại điều 374, 375, 376 QTHL thì tài sản của vợ chồng bao gồm: tài sản người chồng được thừa kế từ gia đình chồng (Khu điền sản), tài sản của người vợ được thừa kế từ gia đình vợ (thể điền sản), tài sản chung do hai vợ chồng cùng kiếm được trong thời kỳ hôn nhân. Sự quy định rõ thành phần khối tài sản của vợ chồng là điểm tiến bộ và độc đáo của pháp luật nhà Lê và vẫn được tiếp thu trong việc xây dựng pháp luật hiện nay.
Về quyền sở hữu đối với tài sản chung: Qua quy định tại Điều 374, 375 QTHL cho thấy tính chất bình đẳng giữa vợ chồng đối với tài sản chung của vợ chồng. Trong trường hợp cần chia tài sản chung thì tài sản mà vợ chồng làm ra đều được chia đôi mỗi người một nửa. Phần tài sản của mỗi bên vợ chồng được nhận làm của riêng, thuộc sở hữu riêng của người ấy. Phần tài sản này sẽ được để lại cho các con khi người vợ hoặc người chồng chết. Nếu người vợ hoặc người chồng không có con thì một nửa tài sản chung đó sẽ được chuyển giao cho gia đình cha mẹ đẻ người đó. Việc chia đôi tài sản chung chứng tỏ sự đóng góp của người vợ vào khối tài sản chung là ngang bằng với người chồng. Vị trí của người vợ trong hoạt động kinh tế quyết định đến vị trí của họ trong gia đình. Vì là người có đóng góp vào kinh tế gia đình nên người vợ cũng có quyền làm chủ đối với tài sản trong gia đình. Việc thừa nhận quyền làm chủ của người vợ đối với tài sản chung đã thể hiện sự bình đẳng trong quan hệ tài sản giữa vợ chồng.
Sự bình đẳng còn được thể hiện ở quyền định đoạt tài sản chung. Pháp luật và phong tục đều đòi hỏi phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng trong việc chuyển nhượng tài sản chung cho người khác.
Ngoài việc được chia một nửa tài sản chung mà vợ chồng làm ra, người vợ còn được hưởng hoa lợi từ 2/3 phần tài sản của chồng để nuôi phần đời còn lại sau khi người chồng chết. Chỉ khi người vợ mất hay cải giá thì mới mất quyền hưởng lợi, quyền sử dụng đối với phần tài sản của chồng (Điều 375 QTHL)
Qua các quy định về quyền sở hữu tài sản vợ chồng trong QTHL có thể thấy nhà làm luật đã hạn chế phần nào uy quyền của người chồng với quan điểm Nho giáo. Hơn nữa, việc pháp luật cho phép chuyển trả lại gia đình cha mẹ đẻ của người vợ phần tài sản riêng của người đó trước khi kết hôn và một nửa tài sản chung mà vợ chồng làm ra trong thời gian hôn nhân nếu người vợ chết mà không có con càng khẳng định tính chất độc lập trong quan hệ sở hữu tài sản của vợ và chồng.
2. QTHL và HVLL đều thừa nhận quyền yêu cầu ly hôn của người vợ:
Bên cạnh việc quy định các trường hợp chồng được rẫy vợ khi vợ phạm phải một trong bảy điều thất xuất như đã nêu ở trên, Đoạn 165 Hồng Đức Thiện chính thư và Điều 108 HVLL có quy định mang tính nhân đạo cao, phù hợp với đạo lý của dân tộc ta, đó là ba trường hợp chồng không được bỏ vợ, dù rằng vợ đã phạm vào một trong các trường hợp thất xuất (gọi là tam bất khứ) khi: “Khi người vợ đã để tang nhà chồng 3 năm; Khi vợ chồng lấy nhau nghèo, về sau giàu có; Khi vợ chồng lấy nhau, vợ còn bà con họ hàng, lúc bỏ nhau vợ không còn bà con nào để trở về”. Quy định này xuất phát từ phong tục, từ tình nghĩa vợ chồng nhằm bảo vệ những quyền lợi cơ bản tối thiểu nhất của người vợ phù hợp với đạo lý người Việt Nam.
Song song với quyền ly hôn của người chồng, QTHL và HVLL còn cho phép người vợ có quyền yêu cầu ly hôn. Nếu trường hợp rẫy vợ thể hiện sự bất bình đẳng, sự phân biệt đối xử với quyền lợi hợp pháp của người vợ thì việc quy định vợ có quyền yêu cầu ly hôn đã thể hiện tính độc lập, vị thế ngang bằng của người vợ trước chồng đồng thời cũng là biện pháp bảo vệ quyền lợi pháp lý cho người vợ.
QTHL quy định người vợ có quyền trình quan xin ly hôn khi xảy ra một trong hai trường hợp sau đây: Điều 308 minh thị chồng bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại, đã có con thì một năm nếu vợ trình với quan sở tại và xã quan làm chứng thì sẽ mất vợ hoặc con rể lấy chuyện phi lý mà mắng nhiếc cha mẹ vợ, đem việc thưa quan sẽ cho ly dị (Điều 333 quy định). Quy định này thể hiện được địa vị tương đối bình đẳng giữa người vợ và người chồng. Người chồng phải có nghĩa vụ quan tâm chăm vợ không chỉ sức khỏe, tinh thần mà còn phải đáp ứng về nhu cầu tâm sinh lý. Khi địa vị của người vợ được quan tâm thì địa vị của cha mẹ vợ cũng được nâng cao hơn. Nếu con rể mắng nhiếc cha mẹ vợ thì bị coi là bất hiếu nên người vợ có quyền thể hiện thái độ của mình bằng việc yêu cầu ly hôn. Điều này thể hiện nghĩa vụ tòng phu không làm mất đi năng lực pháp lý của người vợ. Họ vẫn có quyền thưa kiện để bảo vệ mình và những người thân của mình.
HVLL cũng quy định, người vợ có quyền đề nghị ly hôn. Cụ thể, người vợ có quyền bỏ chồng trong 5 trường hợp sau: Người chồng dung túng và ép buộc thể thiếp thông dâm với người khác (Điều 333 HVLL); Người chồng bỏ trốn 3 năm không về (Lệ 2 Điều 108 HVLL); Chồng đánh vợ có thương tích (Điều 284 HVLL), Người chồng cầm cố vợ con (Điều 95 HVLL); Không có tội bị bố mẹ chồng đánh trọng thương (Điều 288 HVLL).
Qua đó, thể hiện được vị thế ngang bằng của người vợ với chồng đồng thời là biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người vợ. Đây là điểm tiến bộ mà pháp luật ngày nay cũng quy định người vợ có quyền ly hôn mà một trong những căn cứ để yêu cầu ly hôn là khi vợ chồng không còn yêu thương nhau, vợ chồng không làm tròn nghĩa vụ, bổn phận với nhau.
Sau khi ly hôn thì mỗi bên đều có quyền kết hôn với người khác. Điều 308 QTHL quy định: “... Nếu đã bỏ vợ mà ngăn cản người khác lấy vợ cũ thì phải tội biếm”. Đây là một điểm mà pháp luật hôn nhân hiện nay có sự tương đồng đảm bảo quyền tự do kết hôn của mỗi bên sau khi ly hôn.
Có thể nói Chế định pháp lý về quan hệ vợ chồng trong QTHL và HVLL đã đạt được tiến bộ rất đáng kể trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, đặc biệt trong việc xác lập quyền vị thế tương đối bình đẳng giữa vợ và chồng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người vợ. Điều đó có được là do nhà lập pháp triều Lê và triều Nguyễn đã tôn trọng và biết kế thừa, phát huy những phong tục tập quán độc đáo của dân tộc vốn đã tồn tại và được ưa chuộng từ bao đời nay, hòa nhập chúng vào hệ thống pháp luật của triều đình, làm cho Bộ luật có sức sống mãnh liệt cho đến ngày nay.
3. Quan hệ giữa cha mẹ và con:
QTHL đã công nhận quyền sở hữu tài sản riêng của con đồng thời cũng quy định trách nhiệm của cha mẹ đối với những hành vi của con. Đây là điểm độc đáo trong Chế định hôn nhân gia đình của QTHL vẫn được duy trì và phát triển trong pháp luật đương đại.
Theo quy định tại điều 347 QTHL, con cái khi đủ 15 tuổi được cấp ruộng đất công để tự nuôi sống bản thân. Quyền sở hữu độc lập tạo điều kiện cho việc xây dựng hộ gia đình riêng của con cái và là cơ sở để cha mẹ được miễn giảm trách nhiệm đối với những món nợ của con cái.
Tài sản riêng của con bao gồm những tài sản mà còn được thừa kế. Theo quy định tại Điều 388 thì các con đều có quyền thừa kế tài sản như nhau. Đối với tài sản riêng của con thì cha mẹ không có quyền định đoạt, đặc biệt là tài sản mà con được thừa kế. Bộ luật QTHL đã bảo vệ quyền thừa kế tuyệt đối của con và trừng phạt những hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu đó của con. Điều 377 quy định hình phạt đối với người vợ đem bán tài sản thừa kế của con từ người chồng mình đã chết là 50 roi, trả tiền lại cho người mua, trả ruộng cho con. Người chồng sau hoặc vợ sau mà đem bán tài sản của con chồng trước hoặc vợ trước thì bị xử nặng hơn. Tuy nhiên, nếu con chưa trưởng thành thì cha mẹ có trách nhiệm quản lý tài sản của con. Trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết trước thì người còn sống sẽ quản lý tài sản của con.
Bên cạnh những nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ thì QTHL còn quy định cha mẹ có nghĩa vụ chịu trách nhiệm về những hành vi của con. Điều 475 QTHL quy định:
Các con còn ở nhà với cha mẹ mà đi ăn trộm thì cha bị xử tội biếm, ăn cướp thì cha bị xử tội đồ, nặng thì xử tăng thêm tội và đều phải bồi thường thay con những tang vật ăn trộm, ăn cướp. Nếu con đã ở riêng thì cha bị xử tội phạt hay biếm, cha đã báo quan thì không phải tội; Nhưng đã báo quan rồi mà để con ở nhà thì cũng xử như chưa báo. Tuy nhiên khi con đã ở riêng thì cha mẹ được miễn giảm trách nhiệm đối với những món nợ mà con mắc phải.
Quy định phân chia tài sản thừa kế cho con nuôi được quy định trong QTHL và HVLL cho thấy sự phân biệt không quá lớn trong vấn đề con đẻ, con nuôi. Những điểm tốt đẹp này vẫn còn được lưu giữ trong pháp luật đương đại. Cụ thể, Điều 380 QTHL còn quy định con nuôi sẽ được 1/3 điền sản (nếu trong giấy của con nuôi có ghi là sẽ cho điền sản). Nếu cha mẹ không có con đẻ mà con nuôi ở cùng với cha mẹ từ thuở bé, thì được cả, thuở bé không cùng ở thì con nuôi được hai phần, người thừa tự được một phần. Điều 76 Lê 4 HVLL cũng quy định con nuôi được thừa kế tài sản của cha mẹ nuôi trong trường hợp:
Phàm người khác họ đi làm nghĩa tử rồi lại tình nguyện quy tông, thì không được mang theo những của cải mà cha mẹ nuôi chia cho. Trường hợp đứa con trai bị bỏ hoang từ 3 tuổi trở xuống, vẫn y theo luật cho theo họ mình, chỉ không cho kế tự dù rằng mình không có con trai, nhưng vẫn châm chước chia cho tài sản. Không bắt buộc phải quy tông .
4. Quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình:
Trong xã hội phong kiến, tư tưởng nho giáo đặt chữ hiếu ở hàng thứ hai sau chữ trung (trong quan hệ vua tôi). Pháp luật phong kiến Việt Nam quy định việc bất hiếu của con cái được coi là một trong mười tội ác (thập ác). Điều này được thể hiện tại Điều 2 QTHL và Điều 2 HVLL, trong đó hành động bất hiếu bao gồm: “Tố cáo hay chửi mắng ông bà, cha mẹ; Không tuân theo lời dạy bảo của cha mẹ; Không săn sóc, phụng dưỡng cha mẹ; Kết hôn trong thời kỳ để tang cha mẹ, ông bà, cha mẹ chết mà dấu không cử người tổ chức tang lễ; Nói dối là ông bà, cha mẹ đã chết”. Nếu con cháu vi phạm vào một trong các điều nêu trên thì sẽ bị trừng phạt rất nghiêm khắc.
Với mục đích duy trì sự hòa thuận trong gia đình, Pháp luật trừng phạt nặng việc anh em đánh lộn nhau (Điều 478 QTHL và Điều 285 HVLL). Việc anh em đánh lộn nhau là không phù hợp với đạo đức, làm cha mẹ đau lòng, bại hoại gia phong, phải xử lý để anh em phân biệt phải trái giữ gìn tình cảm anh em. Ngoài ra, Điều 512 QTHL còn quy định nếu anh em trong nhà kiện cáo thì sẽ bị xử nặng hơn người thường một bậc.
Trên đây là những giá trị của Bộ luật QTHL và HVLL trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Những giá trị này đã có sự tác động, ảnh hưởng đến pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện nay mà chúng ta vẫn còn kế thừa, tiếp thu trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật.