Bảo vệ trẻ em là trách nhiệm của gia đình, cộng đồng, xã hội và nhà nước. Tuy nhiên hiện tượng bỏ rơi trẻ em vẫn đang diễn ra trên thực tế, Vậy thì, cha mẹ bỏ rơi con hoặc bỏ mặc con thì bị xử phạt như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Cha mẹ bỏ rơi con, bỏ mặc con bị xử phạt như thế nào?
1.1. Hiểu như thế nào về trẻ em bị bỏ rơi:
Theo từ điển tiếng Việt, bỏ rơi có nghĩa là bỏ mặc, không quan tâm đến và coi như không còn có quan hệ. Bỏ rơi trẻ em hay bỏ con là hành vi từ bỏ quyền lợi và yêu sách đối với con của mình một cách bất hợp pháp với mục đích không bao giờ tiếp tục hoặc tái khẳng định quyền giám hộ đối với chúng. Dù vì bất cứ lý do gì thì hành động bỏ rơi con vẫn là một hành vi vi phạm pháp luật và đây được xem là một hình thức xâm hại nghiêm trọng trẻ em. Theo quan điểm tiếp cận của tác giả thì có thể phân loại đối tượng trẻ em bị bỏ rơi theo hai nhóm:
Nhóm 1: Trẻ em bị bỏ rơi là trẻ em sơ sinh bị cha mẹ hoặc người chăm sóc vứt bỏ hoặc từ bỏ một cách bất hợp pháp. Cha mẹ và người chăm sóc từ chối nghĩa vụ và trách nhiệm chăm sóc bồi dưỡng chính con đẻ của mình, tước bỏ trẻ em khỏi gia đình ngay ở giai đoạn đầu đời cần sự chăm sóc và nuôi dưỡng đặc biệt nhất. Hành vi bỏ rơi xuất phát từ chính trong suy nghĩ và ý chí chủ quan của người bỏ rơi trẻ, có thể gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng ảnh hưởng ngay lập tức đến quyền sống còn và quyền phát triển của trẻ em.
Nhóm 2: Trẻ em bị bỏ rơi là nhóm trẻ em không phải trẻ sơ sinh bị cha mẹ hoặc người chăm sóc từ chối nghĩa vụ, trách nhiệm chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ, cắt đứt quan hệ tình cảm và vật chất với đứa trẻ, bỏ mặc trẻ em tự sinh sống. Hành vi bỏ rơi này có thể xuất phát từ nguyên nhân cha mẹ hoặc người chăm sóc không đủ điều kiện để cho trẻ phát triển toàn diện trong môi trường bình thường hay phân biệt giới tính trẻ em. Hậu quả khiến trẻ em rơi vào hoàn cảnh bơ vơ không có nhà cửa và không có nơi lương tựa cũng như không có các đủ điều kiện để thực hiện các quyền cơ bản của trẻ em.
Có thể thấy việc xác định một đứa trẻ được coi là bị bỏ rơi cần xem xét những căn cứ sau: mối quan hệ giữa trẻ em đó với người đã bỏ rơi trẻ em và hành vi trực tiếp của người đã bỏ rơi trẻ em. Từ phân tích trên thì có thể đưa ra khái niệm trẻ em bị bỏ rơi như sau: Trẻ em bị bỏ rơi là những trẻ em bị cha mẹ hoặc người chăm sóc từ chối nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em, bị tước đi quyền được sống chung với cha mẹ và gia đình do hành vi trái pháp luật của họ, dẫn đến việc trẻ em không đủ điều kiện để thực hiện các quyền cơ bản theo quy định của pháp luật, cần có sự hỗ trợ và can thiệp đặc biệt của nhà nước, gia đình và xã hội để được an toàn và đảm bảo thực hiện các quyền của trẻ em.
1.2. Hành vi bỏ rơi con có bị coi là vi phạm pháp luật không?
Căn cứ theo Điều 6 của văn bản hợp nhất Luật Trẻ em năm 2018, các hành vi sau đây sẽ bị nghiêm cấm đối với trẻ em, cụ thể như sau:
– Thực hiện những hành vi tước đoạt quyền sống của trẻ em, bỏ rơi, mua bán, chiếm đoạt hoặc đánh tráo trẻ em;
– Xâm hại tình dục trẻ em, bóc lột và lạm dụng trẻ em trái quy định của pháp luật;
– Xúi giục, tổ chức hoặc cưỡng ép trẻ em tảo hôn, vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình;
– Cản trở trẻ em trong quá trình thực hiện các quyền và lợi ích chính đáng của mình, không cung cấp hoặc bao che thông tin về trẻ em bị xâm hại hoặc trẻ em có nguy cơ bị bóc lột, bị bạo lực cho gia đình, cơ sở giáo dục, cơ quan, cá nhân có thẩm quyền;
– Kỳ thị, phân biệt đối xử với trẻ em vì sự khác biệt về giới tính, dân tộc, hoàn cảnh gia đình, quốc tịch, tín ngưỡng, tôn giáo …;
– Bán cho trẻ em các chất kịch thích hoặc cho trẻ em sử dụng rượu, bia, thuốc lá và chất gây nghiện, chất kích thích khác, thực phẩm không bảo đảm an toàn, có hại cho trẻ em;
– Cung cấp dịch vụ mạng truyền thông và các dịch vụ khác; sản xuất, sao chép, lưu hành, vận hành, phát tán, sở hữu, vận chuyển, tàng trữ, kinh doanh xuất bản phẩm, đồ chơi, trò chơi và những sản phẩm khác phục vụ đối tượng trẻ em nhưng có nội dung ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của trẻ em. Và các hành vi khác trái với quy định của pháp luật về trẻ em.
Như vậy, có thể thấy, hành vi bỏ rơi hoặc bỏ mặc trẻ em chính là một trong những hành vi bị pháp luật nghiêm cấm. Do đó, nếu cha mẹ hoặc người thân thích của đứa bé có hành vi vứt bỏ con mình thì sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật tùy vào tính chất, mức độ vi phạm và hậu quả khác nhau.
1.3. Cha mẹ bỏ rơi con, bỏ mặc con bị xử phạt như thế nào?
Căn cứ theo Điều 27 văn bản hợp nhất Luật Trẻ em năm 2018, có thẻ thấy rằng, trẻ em là đối tượng có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bạo lực, không bị bỏ rơi, hoặc bỏ mặc làm tổn hại đến sự phát triển toàn diện của trẻ em. Vì thế mọi hành vi vi phạm nguyên tắc này đều bị xử lí theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 21 của nghị định 130/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em, mức xử phạt đối với hành vi bỏ rơi hoặc bỏ mặc con được ghi nhận như sau:
Thứ nhất, phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 15 triệu đồng đối với một trong các hành vi dưới đây:
– Cha mẹ không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc trẻ em, trừ trường hợp bị buộc phải tạm thời cách ly trẻ em hoặc trẻ em được chăm sóc thay thế theo quy định của pháp luật;
– Cha mẹ hoặc người chăm sóc trẻ em không quan tâm chăm sóc trẻ em, không thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em hoặc bỏ mặc trẻ em tự sinh sống, cắt đứt quan hệ tình cảm và vật chất với trẻ em hoặc ép buộc trẻ em không sống cùng gia đình, trừ trường hợp bị buộc phải tạm thời cách ly trẻ em hoặc trẻ em được chăm sóc thay thế theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 25 triệu đồng đối với cha mẹ hoặc người chăm sóc trẻ em có hành vi cố ý bỏ rơi trẻ em (biết hành vi của mình là trái pháp luật và nhận thức được hậu quả nhưng vẫn thực hiện và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra).
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, hành vi bỏ rơi con cái của cha mẹ và những người thân thích sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính cao nhất lên đến 15 triệu đồng. Đối với hành vi cố ý bỏ rơi trẻ em sẽ bị xử phạt từ 20 triệu đồng đến 25 triệu đồng.
2. Cha mẹ bỏ rơi con, bỏ mặc con có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Theo quy định tại Điều 124 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi và bổ sung năm 2017), nếu như có đủ các điều kiện sau đây thì cha mẹ có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, cụ thể như sau:
– Trẻ em bị bỏ rơi không lớn hơn 07 ngày tuổi;
– Người mẹ do bị ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt;
– Giết con do mình đẻ ra hoặc vứt bỏ con do mình đẻ ra dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết.
Lưu ý rằng, nếu đứa bé lớn hơn 07 ngày tuổi hoặc người mẹ không do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà thực hiện hành vi này thì sẽ không bị truy cứu về tội danh trên mà có thể sẽ bị truy cứu hình sự về tội giết người được quy định tại Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi và bổ sung năm 2017).
Nhìn chung, tội giết con mới đẻ là trường hợp đặc biệt của tội giết người, là tội phạm có cấu thành vật chất nên ngoài hành vi thì việc xác định hậu quả cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Các nhà làm luật cho rằng nếu chỉ có hành vi mà chưa có hậu quả xảy ra thì có nghĩa là mức độ nguy hiểm của tội phạm chưa cao, bởi tính nguy hiểm khách quan của tội phạm là ở chỗ tội phạm đã gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Sự gây thiệt hại này là một trong những nội dung biểu hiện của yếu tố mặt khách quan của tội phạm. Đó là hậu quả nguy hiểm cho xã hội – hậu quả của hành vi khách quan. Hậu quả trong cấu thành của tội giết người nói chung, giết con mới đẻ nói riêng là sự thiệt hại về tính mạng do hành vi phạm tội của người phạm tội gây ra. Hậu quả được quy định là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm tội giết người. Như vậy, tội giết người chỉ được coi là tội phạm hoàn thành khi có hậu quả chết người. Nếu hậu quả chết người không xảy ra vì nguyên nhân khách quan thì hành vi phạm tội bị coi là tội giết người chưa đạt hoặc cố ý gây thương tích, tùy thuộc vào lỗi của người phạm tội. Cũng như tội giết người, hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội giết con mới đẻ. Khi hậu quả đứa trẻ chết xảy ra thì tội phạm hoàn thành, lúc này tội phạm thể hiện đầy đủ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội.
3. Ý nghĩa và vai trò của việc bảo vệ trẻ em bị bỏ rơi:
Thứ nhất, ngăn chặn hành vi trái pháp luật xâm phạm trật tự xã hội, đảm bảo trẻ em luôn được quan tâm, bảo vệ, chăm sóc trong mọi hoàn cảnh.
Thứ hai, nhà nước ghi nhận và bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ rơi thể hiện tính nhân văn của chế độ, tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của con người, góp phần bảo vệ môi trường, cuộc sống bình yên và những giá trị văn hóa tốt đẹp trong cộng đồng.
Thứ ba, giảm thiểu tình trạng trẻ em bị bỏ rơi, nâng cao ý thức gia đình, xã hội trong việc bảo vệ quyền trẻ em. Trẻ em là hạnh phúc của gia đình và là mầm non tương lai của đất nước. Tuy nhiên hiện nay, số lượng trẻ em bị bỏ rơi ngày càng gia tăng, trở thành vấn đề nhức nhối trong xã hội Việt Nam, những đứa trẻ, non nớt về mặt thể chất và trí tuệ, chưa thể bảo vệ mình, lại rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, bị bỏi rơi, dẫn đến thiếu thốn về điều kiện sinh tồn, điều kiện phát triển, do vậy, nhà nước và xã hội phải là chủ thể quan tâm đặc biệt tới những đối tượng ấy. Cần có những quy định của pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em bị bỏ rơi, nghĩa vụ của cha mẹ, gia đình, xã hội để trẻ được bảo vệ và phát triển.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật Trẻ em năm 2016;
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
– Nghị định 130/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em.