Tội lây truyền HIV cho người khác (Transmission of HIV to others) là gì? Tội lây truyền HIV cho người khác tiếng Anh là gì? Cấu thành tội lây truyền HIV cho người khác? Hình phạt của tội lây truyền HIV cho người khác?
HIV/AIDS được coi là “căn bệnh thế kỉ” mà cả nhân loại đấu tranh tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có vacxin và thuốc chữa khỏi bệnh, do vậy, chúng ta chỉ có thể giảm thiểu số lượng người bị nhiễm HIV chứ không thể đẩy lùi căn bệnh này hoàn toàn. Để đấu tranh, răn đe nghiêm trị hành vi có nguy cơ lây lan một trong những dịch bệnh nguy hiểm cho con người, pháp luật Hình sự đã quy định về Tội lây truyền HIV cho người khác. Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ phân tích về tội lây truyền HIV cho người khác.
Mục lục bài viết
1. Tội lây truyền HIV cho người khác là gì?
HIV là chữ viết tắt của cụm từ: Human Immunedeficiency Virus, đây là loại virus có khả năng gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải mà hệ miễn dịch của con người bị suy giảm dần dần, tạo điều kiện cho những virus,… và ung thư phát triển mạnh làm đe dọa đến tính mạng của người bị nhiễm.
Lây truyền HIV được hiểu là việc virus HIV lây từ cơ thể này qua cơ thể khác, từ nguồn truyền nhiễm sang một cơ thể mới, làm cho cơ thể mới trở thành một nguồn truyền nhiễm khác. Có 03 đường lây truyền chính đó chính là:
– Qua đường quan hệ tình dục không an toàn. Các dịch thể (máu, dịch tiết sinh dục) từ người nhiễm HIV xâm nhập vào cơ thể người không nhiễm HIV
– Truyền qua máu hay các chế phẩm của máu có nhiễm HIV (tiếp xúc với các vật dụng dính máu, truyền máu nhiễm HIV, ghép mô, ghép tạng,…)
– Tuyền từ người mẹ bị nhiễm HIV sang con (máu của mẹ bị nhiễm HIV qua rau thai sang cơ thể thai nhi, nước ối, dịch tử cung, sữa mẹ,…)
Tội lây truyền HIV cho người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, biết mình bị nhiễm HIV và có năng lực trách nhiệm hình sự cố ý thực hiện việc lây truyền virus HIV từ cơ thể mình sang cơ thể người khác, làm cho nạn nhân bị nhiễm HIV, qua đó xâm phạm đến quyền con người được pháp luật hình sự bảo vệ.
2. Tội lây truyền HIV cho người khác tiếng Anh là gì?
Tội lây truyền HIV cho người khác tiếng Anh là: “Transmission of HIV to others”.
3. Cấu thành tội lây truyền HIV cho người khác
“Điều 148. Tội lây truyền HIV cho người khác
1. Người nào biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho người khác, trừ trường hợp nạn nhân đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người bị HIV và tự nguyện quan hệ tình dục, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Đối với 02 người trở lên;
b) Đối với người dưới 18 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 145 của Bộ luật này;
c) Đối với phụ nữ mà biết là có thai;
d) Đối với thầy thuốc hoặc nhân viên y tế trực tiếp chữa bệnh cho mình;
đ) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.”
3.1. Khách thể của tội phạm
Đối tượng của tội lây truyền HIV cho người khác chính là con người, đối tượng bị tác động đầu tiên và chủ yếu nhất là sức khỏe nạn nhân, khi sức khỏe bị tổn hại dẫn đến những ảnh hưởng đến tính mạng, danh dự, nhân phẩm. Khách thể của tội lây truyền HIV cho người khác là quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người
3.2. Mặt khác quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội lây truyền HIV cho người khác là hanh vi làm cho virus HIV lây từ cơ thể người thực hiện hành vi sang cơ thể của người khác (chưa bị nhiễm HIV) bằng các hình thức khác nhau có khả năng làm cho nạn nhân bị nhiễm HIV. Những hình thức dựa trên con đường lây truyền của virus HIV, theo ba con đường đã nêu trên:
Đối với lây truyền qua được quan hệ tình dục không được bảo vệ, có thể một người khi biết mình bị nhiễm HIV đã có suy nghĩ mình sẽ chết, muốn có thêm người bị nhiễm giống mình và chết theo nên đã có quan hệ tình dục bừa bãi với nhiều người, khiến họ bị nhiễm HIV; hoặc những trường hợp người chồng bị nhiễm HIV nhưng che giấu bệnh tình của mình, vẫn quan hệ tình dục với nhiều người,…
Đối với lây truyền qua máu hay các sản phẩm có máu có nhiễm HIV, chỉ cần tiếp xúc trực tiếp với máu hay với các sản phẩm từ máu có nhiễm HIV thì người tiếp xúc sẽ rất dễ bị nhiễm HIV, tỉ lệ lên đến hơn 90. Người phạm tội thường thực hiện các hành vi như dùng kim tiên đâm vào cho người mình hoặc rút máu mình rồi đâm vào người khác,…
Lây truyền từ người mẹ bị nhiễm HIV sang con, thì HIV có thể truyền từ mẹ sang con trong thời kỳ mang thai, trong quá trình sinh con, hoặc thông qua việc cho con bú. Tuy nhiên, hiện nay việc người mẹ bị nhiễm HIV mà vẫn mang tại và sinh con không phạm tội lây truyền HIV cho người khác.
Về hậu quả thiệt hại cho xã hội đó chính là sự thiệt hại cho quan hệ nhân thân (quyền được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, thân thể của cá nhân) được biểu hiện và việc sức khỏe của nạn nhân bị ảnh hưởng, tính mạng bị đe dọa khi họ đã bị nhiễm HIV.
Mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả của tội phạm. Trong trường hợp có hậu quả nạn nhân bị nhiễm HIV, thì phải chứng minh được hành vi lây truyền HIV của chủ thể là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả nạn nhân bị nhiễm HIV (do bị lây truyền từ chủ thể). Việc chứng minh dựa trên hành vi lây truyền HIV cho nạn nhân của chủ thể phải xảy ra trước khi nạn nhân bị nhiễm HIV, hành vi này phải chứa đựng khả năng làm lây truyền HIV, trước và sau đó, không có hiện thương chứa đựng khả năng làm lây truyền HIV nào khác tác động lên nạn nhân.
3.3. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội lây truyền HIV cho người khác là người có năng lực trách nhiệm hình sự, tức nhận thức được hành vi của mình đi ngược lại đòi hỏi xử sự của xã hội. Hành vi lây truyền HIV cho người khác đi ngược lại công cuộc phòng, chống HIV/ AIDS.
Chủ thể của tội lây truyền HIV đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, thì độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của chủ thể tội lây truyền HIV cho người khác là từ đủ 16 tuổi trở lên.
Ngoài việc có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì chủ thể của tội lây truyền HIV cho người khác là người bị nhiễm virus HIV. Đây là một dấu hiệu đặc biệt quan tọng trong đặc điểm nhân thân của người phạm tội. Hành vi lây truyền HIV chỉ có thể được thực hiện bởi người mang trong mình loại virus này. Chỉ những ai biết người bị nhiễm HIV vẫn thực hiện hành vi lây truyền HIV mới có thể trở thành chủ thể của tội lây tuyền HIV cho người khác. Nếu người bị nhiễm HIV nhưng không biết tình trạng nhiễm virus của mình mà lây truyền HIV cho người khác thì không phải chủ thể của tội này.
Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội lây truyền HIV cho người khác là lỗi cố ý “Người nào biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho người khác….”
Trường hợp là lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Người phạm tội lây truyền HIV cho người khác nhận thức được nguy hiểm của virus HIV và cách thức lây truyền của virus này, nhận thức được hành vi lây truyền HIV sẽ gây nguy hiểm cho người khác, gây nguy hiểm cho xã hội những vẫn quyết tâm thực hiện hành vi lây truyền, mà mong muốn người kia bị nhiễm HIV.
Lỗi cố ý gián tiếp, tức người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc hậu quả xảy ra (Khoản 2 Điều 10 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017). Người phạm tội nhận thức được sự nguy hiểm của hành vi lây truyền HIV của mình, biết được người khác rất có thể sẽ bị nhiễm HIV nhưng ý chí của người phạm tội vẫn quyết định thực hiện hành vi này, để mặc cho hậu quả người khác bị nhiễm HIV có thể xảy ra.
3.4. Tình tiết định khung tăng nặng
Phạm tội đối với 02 người trở lên (điểm a Khoản 2): chủ thể thực hiện phạm tội đối với 02 người trở lên nhưng trong một lần phạm tội , hoặc phạm tội 02 lần trở lên đối với 02 người trở lên và những lần phạm tội chưa bị xử lý hình sự, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, được đưa ra truy tố và xét xử cùng một lúc. Nếu cố ý lây truyền cho từ 02 người trở lên nhưng có 01 người bị nhiễm hoặc không ai bị nhiễm thì người phạm tội vẫn bị coi là phạm tội đối với 02 người trở lên.
Đối với người dưới 18 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 145 của Bộ luật này: đây là trường hợp nạn nhân của hành vi lây truyền HIV là người chưa đủ 18 tuổi, người phạm tội có thể biết hoặc không biết việc này.
Phạm tội đối với phụ nữa mà biết là có thai, nhạn nhân của hành vi lây truyền HIV là phụ nữ đang có thai mà người phạm tội biết về việc có thai của nạn nhân thông qua nhìn được người phụ nữ mang thai, nghe, biết được từ các nguồn thông tin khác nhau về người phụ nữ đó đang mang thai.
Phạm tội đối với thầy thuốc hoặc nhân viên y tế trực tiếp chữa bệnh cho mình là trường hợp giữa người phạm tội và nạn nhân có mối quan hệ đặc biệt, cụ thể là những bác sĩ, y sĩ, y tá, hộ lý hoặc nhân viên y tế khác đang trực tiếp chưa bệnh AIDS và các loại bệnh khác do các nhiễm trung cơ hội gây ra cho người phạm tội.
Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân. Trường hợp có nạn nhân của hành vi lây tuyền HIV là người đang thi hành công vụ, đó chính là những người đang được cơ quan tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền giao và đang thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn. Phạm tội vì lý do công vụ của nạn nhân là phạm tội đối với người đã hoặc sẽ thi hành công vụ, công vụ mà nạn nhân được giao thi hành có liên quan hoặc ảnh hưởng trực tiếp đến người phạm tội. Người phạm tội đã thực hiện hành vi lây truyền HIV cho nạn nhân với mục đích nhằm ngăn cản nạn nhân thi hành công vụ hoặc trả tù nạn nhân vì đã thi hành công vụ.
4. Hình phạt của tội lây truyền HIV cho người khác
Hình phạt định khung cơ bản tại Khoản 1 Điều 148 là bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm
Hình phạt định khung tăng nặng tại Khoản 2 Điều 148 là bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm