Theo quy định của pháp luật về phòng chống mua bán người, khi một người có thể được xác định là nạn nhân thì căn cứ vào những điều kiện gì?
Tóm tắt câu hỏi:
Xin chào luật sư. Tôi muốn hỏi Theo quy định của pháp luật về phòng chống mua bán người, khi một người có thể được xác định là nạn nhân thì căn cứ vào những điều kiện gì? Mong Quý Luật sư tư vấn giúp tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Căn cứ để xác định nạn nhân:
1. Một người được xác định là nạn nhân khi họ là đối tượng của một trong những hành vi sau đây:
a) Mua bán người: Coi người như một loại hàng hoá để trao đổi bằng tiền hoặc lợi ích vật chất khác;
b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để:
– Ép buộc bán dâm;
– Ép buộc làm đối tượng sản xuất băng, đĩa hình, sách, tranh ảnh, lịch và những hình thức khác có nội dụng tuyên truyền lối sống đồi trụy, khiêu dâm;
– Ép buộc bểu diễn cho người khác xem thân thể mình với mục đích kích động tình dục;
– Làm nô lệ tình dục;
– Cưỡng bức lao động;
– Lấy các bộ phận cơ thể một cách bất hợp pháp;
– Ép buộc đi ăn xin;
– Ép buộc làm vợ hoặc chồng;
– Ép buộc đẻ con trái ý muốn của họ;
– Ép buộc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;
– Vì mục đích vô nhân đạo khác.
c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người để thực hiện các hành vi quy định tại các Điểm a, b Khoản này hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác
2. Việc xác định nạn nhân phải dựa vào các nguồn tài liệu, chứng cứ sau:
a) Tài liệu, chứng cứ do cơ quan tiến hành tố tụng cung cấp;
b) Thông tin, tài liệu do cơ quan giải cứu nạn nhân cung cấp;
c) Thông tin, tài liệu do cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cung cấp;
d) Tài liệu do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ở nước ngoài cung cấp;
đ) Lời khai, tài liệu do nạn nhân cung cấp;
e) Lời khai, tài liệu do người thực hiện hành vi quy định tại Khoản 1 Điều này cung cấp;
g) Lời khai, tài liệu do những người biết sự việc cung cấp;
h) Các thông tin, tài liệu hợp pháp khác.
3. Trường hợp cơ quan chức năng không chứng minh được một người có phải là nạn nhân hay không, sau khi xác minh lý lịch, thời gian vắng mặt khỏi địa phương nơi họ cư trú, lý do vắng mặt phù hợp với lời khai của họ về việc là đối tượng của một trong những hành vi quy định tại Khoản 1 Điều này thì xem xét các căn cứ để xác nhận họ là nạn nhân:
a) Người đó được phát hiện, giải cứu cùng nạn nhân khác;
b) Người đó có thời gian chung sống cùng nạn nhân tại nơi các đối tượng thực hiện hành vi quy định tại Khoản 1 Điều này giam giữ, quản lý và bị đối xử như những nạn nhân này;
c) Biểu hiện về thể chất và tinh thần: Có dấu hiệu bị bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, bị đối xử tàn tệ, bị thương tích, sợ hãi, hoảng loạn, trầm cảm, ốm yếu;
d) Thời gian người đó rời khỏi địa phương nơi cư trú thì thân nhân của họ trình báo cơ quan chức năng về việc họ bị mất tích hoặc là đối tượng của một trong những hành vi quy định tại Khoản 1 Điều này;
đ) Những thông tin hợp pháp khác giúp có cơ sở để tin rằng người đó là nạn nhân.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Luật sư: 1900.6568 để được giải đáp.