Thủ tục tái thẩm dân sự là gì? Căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm?
Theo như quy định của pháp luật tố tụng của nước ta đều tuân theo nguyên tắc hai cấp xét xử nhằm mục đích đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án tuyên phải thực sự đúng pháp luật, đúng người và đúng lỗi thể hiện sự công khai minh bạch trong quá trình phán quyết. Mặc dụ được quy định là như thế nhưng trên thực tế thì không phải vì vậy mà các bản án, quyết định của Tòa án tuyên đều đúng pháp luật. Chính vì vậy, mà pháp luật đã có quy định đối với những bản án, quyết định vi phạm quy định của pháp luật thì sẽ được giao cho Tòa án được xét lại theo thủ tục tái thẩm khi có căn cứ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Vậy pháp luật tố tụng dân sự hiện hành quy định như thế nào về vấn đề căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm vụ án dân sự được nêu ở trên. Để giải đáp thắc mắc này, trong nội dung bài viết dưới đây, Luật Dương Gia sẽ cung cấp tới quy bạn đọc nội dung như sau:
Luật sư
Cơ sở pháp lý:
–
1. Thủ tục tái thẩm dân sự là gì?
Trên cơ sở quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì được quy định là có hai thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, hai thủ tục được quy định và biết đến là thủ tục giám đốc thẩm và và thủ tục tái thẩm. Không những thế mà pháp luật còn quy định về vấn đề xác định căn cứ để tiến hành mỗi loại thủ tục này có sự khác nhau nhất định. Trong đó, thủ tục tái thẩm được quy định tại Điều 351 của
Từ khái niệm trên, có thể đưa ra các đặc điểm của thủ tục tái thẩm trong pháp luật Tố tụng dân sự như sau:
Thứ nhất, đối tượng của thủ tục tái thẩm là bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Xét trên nguyên tắc cơ bản thì có thể khẳng định rằng những bản án, quyết định của Tòa án khi đã tuyên và có hiệu lực pháp luật thì những người tham gia trong quá trình tố tụng vụ án đó mà được xác định là có liên quan phải chấp hành bản án, quyết định đó. bên cạnh đó, thì pháp luật này cũng có quy định về việc đối với một số trường hợp mặc dù bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có một phần nào đó hay toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án gây ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của đương sự. Chính vì lý do này, cho nên nên pháp luật đặt ra thủ tục tái thẩm để xem xét lại những bản án, quyết định đó nhằm bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thứ hai, bên cạnh quy định về việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự nhưng mà tại giai đoạn xét xử theo thủ tục tái thẩm thì những đương sự có quyền và lợi ích liên quan đến bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không thể trực tiếp kháng cáo theo như quy định của bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bên cạnh đó thì quyền kháng nghị bản án được quy định theo pháp luật đó là việc quy định chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chỉ có Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án
Thứ ba, phiên tòa tái thẩm không bắt buộc có đương sự. Nếu cần thiết Hội đồng tái thẩm sẽ triệu tập đương sự. Bên cạnh đó thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chỉ xem xét lại phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị. Tái thẩm là xét lại bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo do phát hiện những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự không biết được khi giải quyết vụ việc dân sự.
2. Căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Trên cơ sở quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về khái niệm thủ tục tố tụng dân sự tái thẩm được nêu ở trên, Thì có thể khảng định rằng việc mở thủ tục xét xử tái thẩm khi một bản án hay quyết định của Tòa án đã được tuyên và có hiệu lực những phát hiện ra có tình tiết mới hay những tình tiết nội dung khác thấy không đúng với thực tế thì chủ thể có thẩm quyền theo như quy định của pháp luật hiện hành có thể thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với vụ án dân sự đó. Vậy dựa tren những căn cứ nào thì chủ thể có thẩm quyền kháng nghị tiến hành việc kháng nghị của mình đối với bản án, quyết định của tòa án tuyên. Trong mục 2 này, tác giải sẽ gửi tới quý bạn đọc quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tại Điều 352 có quy định về căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, cụ thể:
“Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án;
2. Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;
3. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật;
4. Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ”.
Pháp luật hiện nay quy định có bốn căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là:
Một là, Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án. “Tình tiết quan trọng” trong căn cứ này phải là những tình tiết làm thay đổi nội dung của vụ án. Một tình tiết được xem là mới nếu tồn tại trước khi Tòa án ra bản án, quyết định và được phát hiện sau khi bản án, quyết định ấy có hiệu lực pháp luật. Tiếp theo đó, cần thiết phải xem xét tình tiết đó có ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án đó. Như vậy, tình tiết mới phải có sự ảnh hưởng đến nội dung bản án, quyết định mới được coi là căn cứ để thực hiện thủ tục tái thẩm.
Hai là, Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ.
Ba là, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chỉ xem xét lại phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị.
Tuy nhiên, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm có quyền xem xét phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị hoặc không liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị, nếu phần quyết định đó xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án. Thẩm phán cho rằng mình áp dụng pháp luật là đúng nhưng thực tế là không đúng. Còn căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là Thẩm phán biết rõ việc kết luận của mình là không đúng pháp luật nhưng vẫn cứ kết luận. Đây là những trường hợp hồ sơ đã đầy đủ các tài liệu, chứng cứ, các tình tiết trong vụ án và pháp luật rõ ràng, nhưng Thẩm phán lại xử không đúng pháp luật.
Bốn là, Bản án hay quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ. Bộ luật tố tụng dân sự quy định, đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền phát hiện tình tiết mới của vụ án nhưng không dược trực tiếp thực hiện quyền kháng cáo của mình đối với thủ tục tái thẩm. Mà đối với đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác phát hiện tình tiết mới của vụ án thì cần thực hiện ngày việc
Bên cạnh đó thì pháp luật này cũng có quy định về chủ thể có thẩm quyền kháng nghị được xác định dựa trên quy định tại Điều 400
Như vậy, có thể thấy rằng theo như quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có quy định về thủ tục tố tụng tái thẩm thì những người như đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền phát hiện tình tiết mới của vụ án nhưng ở giai đoạn này thì không có quyền kháng cáo mà chỉ có quyền thông báo để chủ thể có thẩm quyền kháng nghị thực hiện việc kháng nghị để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến vụ án dân sự này. Và đây được xem như là một quy định khác biệt của thủ tục tái thẩm với những thủ tục tố tụng khác trong quy định của pháp luật tố tụng hiện hành.