Trong hoàn cảnh chiến tranh, những đứa trẻ chính là người bị nhiều tổn thương nhất, xa vòng tay của cha mẹ. Thế nhưng ở đâu đó vẫn có những đứa trẻ may mắn được bà nuôi dưỡng yêu thương và truyền cho sức sống. Hôm nay hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về tình bà cháu trong bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt nhé
Mục lục bài viết
1. Dàn ý cảm nhận về tình bà cháu trong bài Bếp Lửa của Bằng Việt:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu về tác giả Bằng Việt và tác phẩm “Bếp lửa”
1.2. Thân bài:
a. Tình yêu của bà dành cho cháu:
– Cụm từ “ấp iu nồng đượm”: chỉ tình yêu thương của cô.
→ Hình ảnh nàng hiện lên với ngọn lửa tình cháy bỏng.
– Những kỉ niệm tuổi thơ gian khó của em đều gắn liền với bà:
Bà đã thay cha mẹ nuôi cháu trong những năm tháng bần cùng nhất của đất nước: “Lên bốn tuổi đã quen mùi khói/Bố đánh xe khô ngựa gầy”.
Bà cũng dạy các con đạo làm người “Bà ở với con, bà bảo con nghe/ Bà dạy con làm, bà lo cho con ăn học”.
Hàng loạt hình ảnh người bà được liệt kê với điệp ngữ “bà ngoại” và động từ “dạy dỗ, chăm sóc”: diễn tả cảnh bà dạy cháu khôn lớn.
– Cô ấy cho tôi sức mạnh để vững vàng, tự tin hơn vào tương lai ngay cả trong những lúc khó khăn nhất, khó khăn nhất.
b. Tình yêu của cháu dành cho bà:
– Cháu thương bà cần cù, chịu thương chịu khó, hy sinh cho tôi: “Bà biết bao nhiêu nắng mưa trong đời”:
“Nắng mưa”: những khó khăn, vất vả, gian nan, vất vả trong cuộc đời cô.
Từ “bướng bỉnh”: thể hiện sự hi sinh, những vất vả mà cả cuộc đời bà đã phải chịu đựng.
– Nhưng bà vẫn là người giữ lửa và truyền lửa cho thế hệ sau.
– Khi cháu ở xa, nhưng cháu luôn nghĩ về bà.
1.3. Kết bài:
Khẳng định lại tình yêu thương bà cháu trong bài thơ Bếp Lửa
2. Phân tích tình cảm bà cháu trong bài thơ Bếp Lửa hay nhất:
Bếp lửa là bài thơ được tác giả Bằng Việt sáng tác vào những năm đầu của năm 1963, tác giả đã có những kỉ niệm khó quên với người bà của mình, những năm tháng được bà chăm sóc, yêu thương và nuôi nấng cho đến khi trưởng thành.
Tác giả đã có những hồi tưởng về ngọn lửa ấm áp trong giá lạnh “chờ sương sớm”, người bà đã thắp lên ngọn lửa với biết bao công sức và khó khăn. Bà thương cháu, biết bao ngày nắng mưa, khi trái gió trở trời.
Dòng hồi tưởng của tác giả bắt đầu từ những năm khốn khổ của nạn đói 1945, cái nghèo len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội. Đến đây bà và cháu đã quen, chính cái cảm giác cay cay nơi sống mũi vì khói làm cháu nhớ bà nhiều hơn.
Vì hoàn cảnh bố mẹ cháu phải đi công tác xa, người bà một mình nuôi cháu, lo từng miếng ăn, giấc ngủ. Trải qua những lần giặc đốt nhà bà vẫn vững vàng giúp cha ngoài trận tuyến vẫn yên tâm công tác, người bà giàu đức hi sinh, chịu thương chịu khó đó là hình ảnh tiêu biểu cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam siêng năng, yêu thương và tốt bụng.
Mỗi lần thắp lên ngọn lửa không chỉ là nguyên liệu mà còn thắp lên ngọn lửa yêu thương trong lòng bà, cháu còn mang niềm tin, sự sống cho thế hệ mai sau.
3. Phân tích tình cảm bà cháu trong bài thơ Bếp Lửa ấn tượng nhất:
Bằng Việt viết bài thơ Bếp lửa khi đang công tác ở nước ngoài. Hình ảnh người cháu ngoan cũng là sự hóa thân của nhà thơ vào nhân vật trữ tình khi nghĩ về những kỉ niệm nơi xã cũ về hình ảnh bếp lửa quê hương và người bà hiền lành, chăm chỉ. Tình cảm ấy được tái hiện một cách chân thực và cảm động làm lay động lòng người.
Hình ảnh bếp lửa trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu trầm ấm, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” như một dấu ấn khó phai trong tâm trí nhà thơ. Xuất phát từ nỗi nhớ ấy, mọi hình ảnh, ngôn từ hiện lên qua dòng hoài niệm. Trong ký ức ấy, cuộc sống của bà đầy “lận đận”, trải qua nhiều “nắng mưa” khó khăn. Bà vất vả, chịu thương, thức khuya vì bát cơm, manh áo của con cháu trong gia đình, đoạn thơ chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Cả đời bà nhóm lửa, trải qua mưa nắng “mười chục năm”. Ngọn lửa không chỉ được nhóm lên bằng củi, rơm mà được nhóm lên từ ngọn lửa của sức sống, của tình yêu thương luôn được “ươm” trong tim, của niềm tin vô cùng “bền bỉ” và không bao giờ tắt. Bếp lửa là kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng diệu kỳ nâng bước bạn trên đường đời. Bếp lửa là sức sống, là tình yêu thương, là niềm tin mà bà đã truyền lại cho các con.
Không chỉ thắp lửa bằng đôi bàn tay già gầy guộc mà bằng tấm lòng nhân hậu, bà luôn “hơi ấm hương thơm” cho đứa cháu ngoại.
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Điệp từ “nhóm” được lặp lại 4 lần, đan xen với những chi tiết rất thực, quen thuộc với mỗi người, mỗi gia đình. Vị ngọt bùi của củ sắn, vị ngọt bùi của nồi xôi mới… tất cả đều được bàn tay cần mẫn của bà “nhóm lại”. Bà đã nhen nhóm và nuôi dưỡng trong lòng họ biết bao “yêu thương”, biết bao ước mơ, hoài bão và hy vọng. Tâm hồn và khát vọng tuổi thơ đã bừng sáng từ ngọn lửa mà bà đã “thắp sáng” hàng chục năm qua.
Nếu xưa kia, đó là ngọn lửa đỏ được thắp lên trong những tháng ngày gian lao, khổ cực vì chiến tranh, đói kém thì nay “ngọn lửa” ấy vẫn “thắp sáng” trong tâm hồn tác giả biết bao vẻ đẹp khác. “Lửa…” là cái bếp thật, ngọn lửa thật, là ánh sáng và hơi ấm. “Tổ ấm” có nghĩa là người bà đã truyền lại cho đứa cháu của mình một trái tim và tâm hồn ấm áp. “ Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” hay bà là người mở rộng tấm lòng đoàn kết, gắn bó với xóm làng, quê hương. Cuối cùng, người bà kì diệu ấy đã được “hồi sinh”, khơi dậy và bồi đắp tâm hồn, nhân cách tác giả.
Nhạc điệu trong bài thơ này phong phú như sóng thủy triều, lan tỏa như ngọn lửa ấm áp. Có lẽ cảm xúc đang trào dâng, tỏa hơi ấm trong lòng nhà thơ. Từng câu, từng chữ hồng hào, ấm áp biết bao cảm xúc nhớ nhung, biết ơn. Từ hình ảnh ngọn lửa cụ thể, bài thơ gợi lên một ý nghĩa trừu tượng và khái quát. Bà không chỉ là người thắp và giữ lửa mà còn là người truyền ngọn lửa – ngọn lửa sống và niềm tin cho các thế hệ sau.
Trong kí ức của người cháu, hình ảnh người bà nhuốm màu cổ tích. Nghĩ đến bếp lửa, nghĩ đến bà, nhà thơ đã thốt lên lời ngợi ca. Những cảm xúc dồn nén bỗng trào dâng, trào dâng:
“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”.
Có thể nói, câu thơ: “Ôi thiêng liêng lạ lùng – bếp lửa!” rất đặc biệt. Chỉ tám chữ mà chất chứa cảm xúc, tình cảm. Hình ảnh bà và bếp lửa hiện lên thật “linh thiêng” nhưng cũng thật bình dị, gần gũi. Dấu gạch nối ở giữa là “khoảng lặng giữa các từ”, là khoảng lặng nghệ thuật chứa đựng nhiều cảm xúc, suy nghĩ không thể diễn tả bằng lời kể cả những từ rất cô đọng của thơ ca.
Bốn câu thơ cuối tiếp tục thể hiện một cách trìu mến tình cảm yêu thương, kính trọng và biết ơn của đứa con nhỏ nay đã đi xa. Cuộc sống mới thật vui, thật tươi đẹp, có “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà, niềm vui trăm phương” nhưng tôi vẫn không nguôi nỗi nhớ bà, nhớ ngọn lửa gia đình yêu thương. Lời thơ trở nên gần gũi, ngọt ngào:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…
Không gian và thời gian cách xa nhau, dù cuộc sống có đổi thay, đời sống vật chất đầy đủ hơn nhưng tình yêu và nỗi nhớ cô da diết mãnh liệt. Tình cảm ấy đã trở thành thường trực trong tâm hồn tác giả. Câu hỏi tu từ và dấu lặng khép lại bài thơ rất hay, rất hay, có sức ám ảnh đầy ám ảnh trong tâm thức độc quyền. Nhà thơ hỏi mà cũng tự nhắc mình phải luôn nhớ đến ngọn lửa quê hương, nhớ đến người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho đứa cháu xa quê.
Bằng những vần thơ giàu cảm xúc, Bằng Việt đã vẽ nên một chân dung người bà bình dị, ít nói nhưng có tấm lòng nhân ái, bao dung. Những câu thơ như những tia sáng tỏa ra từ ngọn lửa ấm áp, đi sâu vào lòng người đọc.
Trong hành trình cuộc đời của mỗi người, có những ngày tháng, những kỷ niệm và những người không thể quên. Bằng Việt đã kể cho chúng ta một kỉ niệm đẹp về người bà mà anh yêu quý, kính trọng với giọng điệu xúc động sâu lắng, hình ảnh thơ giàu sức liên tưởng, suy ngẫm. “Bếp lửa” là món quà quý mà Bằng Việt gửi đến độc giả. Nó nhắc nhở tuổi trẻ chúng ta về tình yêu thủy chung với gia đình, quê hương, với những gì đã nhen nhóm và nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta trong suốt cuộc đời.
Từ cảm xúc thiết tha, xúc động của người cháu khi nghĩ về những vất vả, nhọc nhằn của người bà, bài thơ thể hiện triết lí sâu sắc: Những gì gần gũi nhất với tuổi thơ đều có sức mạnh tỏa sáng, nâng bước con người suốt hành trình dài của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ tình yêu thương ông bà, cha mẹ, từ những điều gần gũi, bình dị nhất.