Mời các bạn cùng tham khảo dàn ý cảm nhận về hình ảnh bà Tú trong bài thơ "Thương vợ". Dàn ý vẻ đẹp bà Tú trong bài "Thương vợ" sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho các bạn học sinh khi học và làm bài văn phân tích, cảm nhận về tác phẩm "Thương vợ".
Mục lục bài viết
1. Dàn ý cảm nhận về hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ:
1.1. Hình tượng bà Tú nổi lên là một người phụ nữ vất vả lam lũ:
‐ Hoàn cảnh bà Tú: mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội ở “mom sông”.
-
Thời gian “quanh năm”: làm việc liên miên không nghỉ từ năm này qua năm khác.
-
“Mom sông”: vùng đất phía trên dòng sông không ổn định.
⇒ Công việc làm ăn vất vả, thăng trầm, bấp bênh, không ổn định, không chỉ nuôi con mà còn phải nuôi chồng.
‐ Lao động vất vả thể hiện ở sự bươn chải khi làm việc:
-
“Lặn lội”: vất vả, khó khăn, lam lũ.
-
“Thân cò”: gợi sự gian truân, cô đơn ⇒ gợi tả thân phận và nỗi đau chung.
-
“Quãng vắng”: thời gian, không gian đáng sợ, đầy hiểm nguy, lo toan.
⇒ Nỗi vất vả, khó khăn của bà Tú càng được nhấn mạnh qua nghệ thuật ẩn dụ.
-
“Eo sèo…buổi đò đông” ám chỉ đám đông xô đẩy, chen lấn và ẩn chứa bất trắc.
-
Buổi đò đông: sự chen lấn trong hoàn cảnh đông người cũng gây nên sự nguy hiểm.
‐ Nghệ thuật đảo ngữ, so sánh, hoán dụ, ẩn dụ, hình ảnh dân gian làm nổi bật sự vất vả của bà Tú.
⇒ Hiện thực cuộc sống mưu sinh của bà Tú: không gian và thời gian thật đáng sợ, nguy hiểm và thể hiện tấm lòng nhân hậu của ông Tú.
– “Năm nắng mười mưa”: số từ phiếm chỉ số nhiều.
→ Bà Tú vất vả, lam lũ.
1.2. Hình tượng bà Tú với những nét đẹp và phẩm chất đáng quý, đáng trọng:
‐ Dù hoàn cảnh khó khăn nhưng bà Tú vẫn rất quan tâm đến chồng con:
-
“nuôi”: lo chu toàn
-
“năm con một chồng”: bà Tú phải một mình nuôi cả nhà.
⇒ Bà Tú là người có trách nhiệm, chu đáo với chồng con.
– Phẩm chất tốt đẹp của Bà Tú còn thể hiện ở sự chăm chỉ, tận tụy.
-
“Một duyên hai nợ”: ý thức hôn nhân là nhân duyên nên không oán trách.
-
“Dám quản công”: Đức hy sinh thầm lặng cao cả vì chồng con, cần cù, dũng cảm, kiên nhẫn.
⇒ Cuộc sống vất vả, gian khổ nhưng đã làm toát lên những phẩm chất cao quý của bà Tú: đức tính chịu thương, chịu khó, hết lòng vì con vì chồng.
⇒ Đó là vẻ đẹp chung của phụ nữ trong xã hội phong kiến.
2. Cảm nhận về hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ siêu hay:
Nói đến nhà thơ Tú Xương không thể không nhắc đến tác phẩm “Thương vợ”. Trong sự nghiệp làm thơ phong phú và đa dạng của Tú Xương, “Thương vợ” được đánh giá là một trong những bài thơ hay và đặc sắc. Tác phẩm thể hiện một cách xúc động, cảm động thái độ trân trọng, biết ơn của Tú Xương đối với sự hi sinh, tận tụy của vợ để ông được học hành đỗ đạt. Quan trọng hơn, qua hình tượng bà Tú trong “Thương Vợ”, người đọc có thể thấy được chân dung người phụ nữ Việt Nam với những phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu.
Bà Tú tên thật là Phạm Thị Mẫn, xuất thân trong một gia đình Nho học. Bà là người phụ nữ nhẫn nhịn, thuận thảo làm vợ đảm, sớm tần tảo nuôi chồng nuôi con, là chỗ dựa tinh thần trong cuộc đời của Tú Xương, một trí thức long đong, lận đận trên con đường sự nghiệp.
Có lẽ vì thế mà hình ảnh người phụ nữ trở thành đề tài quen thuộc trong thơ Tú Xương. Những bài thơ viết về phụ nữ của ông thường mang nhiều sắc thái: có khi là tâm sự thầm kín, có khi chỉ là những câu bông đùa hóm hỉnh, có khi là những nỗi niềm chua xót, cảm thương. Tất cả các tác phẩm của ông đều được bao phủ bởi sự tôn trọng, cảm thông, lòng biết ơn chân thành của người đàn ông dành cho người phụ nữ.
Khi chúng ta nói về phụ nữ, theo truyền thống, chúng ta đề cập đến hoàn cảnh gia đình trong đó vai trò của người phụ nữ là chăm sóc sự nghiệp và địa vị của người đàn ông. Bà Tú cũng không ngoại lệ, nhưng trong thời buổi rối ren, loạn lạc giữa Tây và Tàu, không còn cảnh thơ mộng “bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ”, bà Tú cũng đã phải cuốn theo guồng quay cuộc đời, cũng phải chạy với sự đấu tranh trao đổi, mua bán để đảm bảo mức sống tối thiểu cho gia đình:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Hình ảnh bà Tú trong “Thương vợ” không xuất hiện trong hình thức bề ngoài mà xuất hiện từ không gian và thời gian của công việc. “Quanh năm” không chỉ là thời gian dài mà còn gợi cho ta một vòng lặp thời gian vô tận, cho thấy cuộc sống khó khăn này không có điểm dừng. Không gian “mom sông” vừa mang giá trị hiện thực vừa lột tả về mảnh đất nhô ra khỏi lòng sông gợi cảm giác bấp bênh, chông chênh.
Bà Tú hàng ngày phải bươn chải với cuộc sống, bởi gánh nặng của cả gia đình đè lên vai: “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Vì vậy, nhiều hàm ý hiện diện trong thành ngữ “nuôi đủ”, nó ám chỉ sự chăm sóc tận tình cho cơm ăn áo mặc, đồng thời hàm ý chịu đựng. Cách nói của nhà thơ đầy thi vị “năm con với một chồng”. Nhà thơ tủi nhục không kém khi tự hạ mình ngang hàng với các con một cách cay đắng, hổ thẹn và cay đắng nhận ra mình cũng là gánh nặng của vợ.
Tục ngữ, khi nói đến hình ảnh người phụ nữ, người ta thường nghĩ đến hình ảnh con cò:
“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
Tú Xương đã vận dụng một cách đầy sáng tạo trong câu thơ:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Từ đó, nhà thơ vận dụng văn chương dân gian và cho ra đời những sáng tạo độc đáo. Bằng cách dùng từ “thân cò” tác giả đã cho thấy thân phận ngược xuôi của người vợ và cắt nghĩa số phận éo le của bà Tú. Nói về cấu trúc cú pháp của đoạn thơ, tác giả đã sử dụng biện pháp đảo ngữ để nhấn mạnh và khuếch đại sự lặng lẽ, khó khăn trong công việc của bà Tú. Trong khi hình ảnh “đò đông” gợi tả tính chất bấp bênh của nghề mưu sinh thì từ “eo sèo” lại gợi tả sinh động sự ồn ào, tất bật, phức tạp và nhọc nhằn của công việc hàng ngày.
Không chỉ cần cù, chăm chỉ, yêu thương mà chân dung bà Tú trong bài “Thương vợ” của Tú Xương còn thể hiện một con người vị tha, coi sự hy sinh là hạnh phúc và là lẽ sống trong cuộc đời mình.
Nhà thơ hóa thân vào người phụ nữ đã nói lên tình cảm của vợ, đó là thái độ chín chắn trước số phận, bao dung trước hoàn cảnh gia đình. Đọc bài thơ, người đọc có thể mường tượng về hình ảnh một người phụ nữ ngồi lặng lẽ, không ưu tư, không trách móc, không tủi thân và cay đắng. Việc sử dụng các phép diễn đạt “một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa” làm cho lời thơ của bài thơ cô đọng. Sự cam chịu và hy sinh của bà Tú được đề cao và nhấn mạnh.
Tiếng nói nặng lòng của nhà thơ ý thức được những khó khăn, vất vả của vợ mà không thể chia sẻ, giúp đỡ một phần nào được thể hiện qua hai câu cuối bài thơ:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
“Thói đời” mà nhà thơ đã nói ở đó, nó là hậu quả của sự giao thời khiến những người chồng vô tâm, mà những người phụ nữ như bà Tú phải gồng gánh gia đình. Đoạn thơ thể hiện sự lo lắng, thái độ chân thành và tự trách của nhà thơ, đồng thời thể hiện tâm trạng bất lực trong bi kịch tinh thần của một trí thức: không cần thiết trong xã hội và ngay cả trong gia đình.
“Thương vợ” được Tú Xương thể hiện rõ nét, sinh động về hình ảnh người phụ nữ với những nét tính cách đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam: dũng cảm, bao dung, yêu thương, chăm chỉ, đầy đức hi sinh và lòng vị tha. Đằng sau bài thơ là tiếng nói tri ân, cảm thông, đồng thời là nỗi đau khôn nguôi của nhà thơ đối với người vợ hiền của mình.
3. Cảm nhận về hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ đặc sắc:
Người phụ nữ đi vào văn học khá nhiều và trở thành một trong những hình tượng lớn của văn học cổ đại. Tuy nhiên, viết về một người phụ nữ với tư cách là một người vợ với tình cảm của một người đàn ông, một người chồng thực sự hiếm có. “Thương vợ” của Tú Xương là một trong những trường hợp hiếm hoi đó. Tác phẩm là bức chân dung của bà Tú, người bạn đồng hành của Tú Xương, được tái hiện bằng sự chân thành của người chồng.
Thứ nhất, hình ảnh bà Tú gắn liền với nhiều gian khổ, nhọc nhằn. Thân phận đàn bà chân yếu tay mềm,nhưng bà Tú vẫn phải một thân một mình làm ăn, một mình chạy vạy, lội sông, chợ búa để mưu sinh. Thời gian quanh năm, bằng không gian ven sông, quãng vắng, buổi đò đông đã thể hiện cái gian truân khó nhọc của bà Tú. Đặt không gian và thời gian cùng với nhau, hình ảnh bà Tú dường như càng nhỏ lại, cô đơn và tội nghiệp. Công việc vất vả cũng được xem như một gánh nặng mà bà Tú phải gánh: một gia đình chồng và năm người con. Năm đứa con với biết bao nhu cầu, đòi hỏi hàng ngày, người đàn ông có học không chỉ không giúp được vợ mà còn là mối bận tâm, nhưng những nhu cầu của chồng dù nhỏ đến đâu cũng đủ tạo thành một bên để cân bằng với năm người con. Chăm con, chăm chồng mà phải chăm làm sao cho đủ. Bao nhiêu sự chăm sóc đổ dồn lên đôi vai gầy của người vợ, người mẹ này. Vì thế bà Tú phải dầm nắng sớm khuya làm việc, không quản hiểm nguy, cô đơn. Biết nói sao về những khó khăn mà bà Tú phải chịu đựng trong cuộc đời? Hình ảnh bà Tú gợi nhớ đến hình ảnh những người phụ nữ lam lũ, bươn chải kiếm sống nuôi chồng con đã lặng lẽ ra đi từ cuộc đời dân tộc.
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Thân cò là hình tượng vô cùng quen thuộc trong văn học truyền thống, là biểu tượng cho người phụ nữ Việt Nam. Tú Xương đã sáng tác hình ảnh “lặn lội thân cò” thể hiện những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, mà đức tính nổi bật là cần cù, chịu khó.
Bà Tú còn đẹp bởi sự tháo vát, chu đáo với chồng con. Cảnh đời buôn bán, mưu sinh của bà Tú không mấy dễ dàng, nhưng chưa bao giờ ta thấy bà Tú chùn bước, có khi một mình bươn chải nơi xa, có khi giành giật đua chen chốn đò đông. Tất cả để nuôi một gia đình: Nuôi năm đứa con với một chồng. Nó minh chứng cho sự tài trí, dũng cảm của bà Tú, đồng thời chuyển tải một cách thuyết phục tấm lòng hết lòng vì chồng vì con của người phụ nữ này.