Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình nên thơ của sông Đà đã được ngòi bút tài hoa của Nguyên Tuân khắc họa một cách vô cùng độc đáo. Nó góp phần không nhỏ vào sự thành công của cả tác phẩm. Dưới đây là hướng dẫn và bài văn mẫu cảm nhận về vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà hay nhất.
Mục lục bài viết
1. Dàn bài cảm nhận vẻ đẹp thơ mông, trữ tình của dòng sông Đà:
Mở bài: Giới thiệu tác giả tác phẩm
Thân bài:
Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của dòng sông:
– Cái ghềnh giờ đây chỉ còn đọng lại trong nỗi nhớ. “Thuyền em lênh đênh trên sông Đà” – câu mở đầu đoạn văn hoàn toàn thể hiện sự bằng phẳng gợi cảm giác lâng lâng, mơ màng trong chất văn nghệ thuật; Ý tưởng âm thầm trùng điệp tạo nên chất thơ.
Thiên nhiên hài hòa mang một vẻ hoang sơ, kỳ thú: Cỏ đồi núi đang ra lộc non, đàn nai đang cúi đầu ăn những búp cỏ đẫm sương.
So sánh bờ sông hoang sơ như bờ tiền sử, hồn nhiên như cổ tích xưa mở ra những liên tưởng về sự bao la, lãng mạn và hiện thực của dòng sông.
– Người với cảnh và thực đan xen nhau: Tiếng còi, con nai ngộ nghĩnh ngước nhìn hỏi khách sông Đà. Khung cảnh khiến người tình trẻ sông Đà xúc động trong thực tại và trong mơ.
Nghệ thuật:
– Lấy động tả tĩnh: Con cá quẫy đạp đủ làm ta giật mình.
– Cái tĩnh lặng chứa đựng sự bất ngờ bởi những đổi thay nối tiếp nhau: con thuyền bồng bềnh, con nai vểnh tai, ngọn cỏ sương, tiếng còi sương, đàn cá chùm xanh bơi lượn. Cảnh vật ở trạng thái động, không gượng ép và mang hơi thở động của cuộc sống đa chiều
* Nhà văn đã mở rộng lòng mình với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe nhịp sống mới, để nhớ, để thương cho dòng sông, cho quê hương:
– Ngưỡng mộ vẻ đẹp của sông Đà, lòng ông dấy lên cảm xúc liên tưởng đến lịch sử, cảm mến cố nhân: nhắc đến công thần thời Lý thời Trần.
– Trước vẻ đẹp hoang sơ, nhà văn nghĩ đến tiếng còi tàu, cuộc sống hiện đại.
– Trải lòng, hóa thân vào dòng sông trong nỗi niềm quê hương: Nhớ thương đá thác nghe tiếng hò, thả trôi thuyền em nở hoa.
Kết bài: Đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của con sông Đà:
Nguyễn Đăng Mạnh khi đánh giá về nhà văn Nguyễn Tuân đã khẳng định rằng: “Nguyễn Tuân là cái định nghĩa về người nghệ sĩ”. “Người lái đò sông Đà” rất tiêu biểu cho phong cách sáng tác nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Nổi bật trong tác phẩm là hình tượng con sông Đà với nét đẹp thơ mộng, trữ tình.
Cái đẹp luôn tồn tại muôn đời trong tâm tưởng chúng ta, và cái đẹp của “Vang bóng một thời” như Vũ Ngọc Phan từng nói: “Cái tiếng vang của thời đã qua, cái bóng của thời đã qua, mà ngày nay tưởng như văng vẳng”. Suốt dọc đường chân trời góc bể, dù lạ người lạ cảnh, nhà văn vẫn có thể chuyển biến thành “quen người quen cảnh”. Ấy là nhờ tài quan sát, tỉ mỉ trong từng khâu nhìn ngắm, cảm nhận, ghi chép của ông. Nhà văn nguyện được đi mãi trên con đường vô định: “Tôi sống với ngoài đường, với những con người đi trên đường, với cái luân lý của người khách bộ hành” (Chiếc vali mới). Tâm hồn cô đơn, bất lực và quẩn quanh của ông trước Cách mạng được bộc lộ rõ trong “Thiếu quê hương”, khi nhân vật Bạch chỉ luôn thèm muốn được đổi chỗ, rong ruổi trên những con đường dài hun hút, không có chỗ bắt đầu mà cũng chẳng có điểm kết thúc. Họ tha lê cái đầu rỗng tuếch, cái thân tàn tạ trên đường đời, cái phẫn uất ngàn năm không gột rửa, chỉ biết lấy xe dịch làm cứu cánh.
Lướt dài trên hành trình của Nguyên Tuân như thế để mỗi người nhận ra rằng, nhà văn đã “lột xác” thế nào trong “Tùy bút sông Đà” sáng tác năm 1960, khi từ hình ảnh một “Tây Bắc đầy của chìm, của nổi, với những phong cảnh bao la một niềm lãng mạn xã hội chủ nghĩa” với “Với tất cả cái nhộn nhịp tươi trẻ của tất cả con người làm ruộng xã hội chủ nghĩa, làm đường xã hội chủ nghĩa” đã hiện ra dài hun hút trên trang văn sau Cách mạng. Và tiêu biểu trong đó không thể không kể đến tùy bút “Người lái đò sông Đà” với vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội song cũng rất trữ tình, thơ mộng.
Nhà văn Pautopxki từng khẳng định: “Nhà văn là người dẫn đường đến xử sở của cái đẹp. Bước vào thế giới văn chương nghệ thuật là bước vào thế giới của cái đẹp.” Quả thật vậy, Nguyễn Tuân là một nhà văn chân chính khi dẫn người đọc đến với vẻ đẹp của dòng sông Đà, không chỉ hung bạo dữ dội mà còn rất trữ tình, thơ mộng.
Hình tượng con sông Đà trữ tình hiện lên với ba góc nhìn. Đầu tiên là góc nhìn từ trên cao nhìn xuống khi đi tàu bay, tiếp đến là góc nhìn của người đi rừng lâu ngày gặp lại sông Đà và của người trôi thuyền trên sông phía hạ lưu; và cuối cùng là góc nhìn của một cố nhân, tình nhân. Nhà văn đã miêu tả con sông như một công trình nghệ thuật, một tác phẩm hội họa mà tạo hóa ban tặng tô điểm cho đất nước, ông khám phá dòng sông ở phương diện thẩm mỹ với phong cách tài hoa. Dù ở góc nhìn nào, nhà văn cũng đều thể hiện được kiến thức phong phú của mình trên nhiều lĩnh vực: văn hóa, điêu khắc, điện ảnh, lịch sử, hội họa, văn học,… Mỗi câu văn tuôn ra đều giống như một áng tóc dài tha thiết, mượt mà và êm ả đến độ người ta phải bật thốt lên vì tài năng văn chương của người nghệ sĩ họ Nguyễn.
Từ trên tàu bay nhìn xuống, Tây Bắc như người thiếu nữ duyên dáng, yêu kiều mà sông Đà chính là áng tóc mềm mượt của người thiếu nữ đang khao khát thanh xuân này. Nguyễn Tuân đã nhìn thấy dòng chảy uốn lượn của con sông Đà tựa như một áng tóc trữ tình buông dài vắt ngang qua núi rừng hùng vĩ. Đẹp lắm, duy dáng lắm! Nhà văn sử dụng câu văn dài, ít ngắt quãng để gợi tả độ dài của sông Đà và mái tóc của người thiếu nữ. Đồng thời sử dụng từ ngữ gợi tả dòng chảy êm đềm của sông Đà mang cái linh hồn của Tây Bắc “Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc cuồn cuộn mùi khói mèo đốt nương xuân”. Điệp ngữ “tuôn dài’ cùng nhịp văn mềm mại như ru tạo nên vẻ đẹp uyển chuyển, thướt tha của dòng sông. Phép so sánh dòng sông như một “áng tóc trữ tình” là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Phép so sánh ấy đầy chất thơ, chất họa, chẳng những phô ra được vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng, kiêu sa, kiều diễm của dòng sông Đà mà còn bộc lộ chất phong tình, lãng mạn của người nghệ sĩ. Dòng Đà giang giờ đây tựa như một nàng thiếu nữ xuân sắc đang buông hờ mái tóc làm duyên, làm dáng giữa mùa hoa ban, hoa gạo dưới vẻ đẹp bồng bềnh của mây khói. Thần sắc của thiên nhiên nơi đây được Nguyễn Tuân miêu tả với vẻ đẹp rất riêng, rất lạ, rất thơ. Khói núi Mèo mà người đồng bào đốt nương mỗi khi Tết đến cũng khiến người ta nao lòng đến lạ. Tây Bắc muôn đời vẫn đẹp, sông Đà hung bạo đến đâu cũng có lúc kiều diễm như cô gái trẻ bùng cháy sức xuân trong khoảnh khắc thanh xuân. Bao nhiêu vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình quyến rũ của đất trời đã ùa về thức dậy trong câu văn của Nguyễn Tuân – “Người thợ kim hoàn của chữ” (Hoài Thanh)
Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của sông Đà còn được thể hiện ở màu sắc đặc biệt của dòng sông. Mê đắm trước vẻ đẹp của sông Đà, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra sự thay đổi và biến chuyển của màu nước trên sông. Sông Đà hiện lên với vẻ đẹp lạ lùng, quyến rũ như một mỹ nhân với những điệu nghệ làm say đắm lòng người. Sông Đà luôn làm mới, làm đẹp với chính mình, sắc nước sông Đà thay đổi theo từng mùa, mỗi mùa một vẻ đẹp riêng. Nguyễn Tuân đã say sưa mê đắm, chiêm nghiệm vẻ đẹp của con sông này để cất lên những trang viết như thứ men say gửi đến bạn đọc. Con sông Tây Bắc thật bay bổng và lãng mạn biết bao! “Tôi đã say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống sông Đà”, lúc này đây người nghệ sĩ ấy đã phó amwjc thả trôi tâm hồn mình cùng với sóng nước sông Đà, chính vẻ đẹp của mây trời Tây Bắc bung nở hoa đã gieo nên những hạt mầm xanh tốt tạo nên cái sắc riêng không trộn lẫn của thiên nhiên nơi đây Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy dòng sông Hương với ánh nắng ban mai rực rỡ tạo nên cái sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, tạo nên từ cảnh sắc thiên nhiên đôi bờ và sự phản quang của đất trời vạn vật để tạo nên một đóa hoa phù dung mĩ miều, thì Nguyễn Tuân lại viết về sông Đà với những cảm quan nhạy bén.
Mùa xuân nước sông Đà xanh ngọc bích chứ không “xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Cũng là xanh đấy, nhưng xanh ở đây là sự kết đọng của vẻ đẹp toàn bích, trong sáng, xanh một màu xanh gợi cảm, trong lành, rung rinh trong nắng sớm mà lấp loáng bóng cây rợp quang dòng sông. Sắc xanh ấy phải chăng là cái điệu xanh của xanh cây, xanh rừng, xanh núi, xanh mây trời, xanh như cái sức mạnh kì diệu mà tạo hóa đã ban tặng cho thiên nhiên hùng vĩ nơi đây. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”; “lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội mỗi độ thu về’. Câu văn sử dụng phép so sánh đặc sắc khiến người đọc hình dung được vẻ đẹp đa dạng của màu nước sông Đà. Lần đầu tiên có người dùng màu sắc của da người để miêu tả vẻ đẹp của dòng sông. Cái màu đỏ “lừ lừ” ấy có lẽ chỉ Nguyễn Tuân mới thấy, mới cảm mới viết nên được. Nó chỉ có thể tạo nên từ bàn tay của một người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác. Đặc biệt, phải khẳng định rằng, dù có đa sắc màu nhưng nước sông Đà chưa bao giờ màu đen như bọn “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ thức mực Tây vào rồi gọi bằng một cái tên láo lếu”. Qua những câu văn miêu tả về màu nước sông Đà, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật được cái trữ tình, thơ mộng của dòng nước còn cả cái dữ dội ngàn đời của con sông nơi đầu tổ quốc. Nguyễn Tuân đã dựng lên cả một thế giới thiên nhiên rộng mở, tươi đẹp sống động và giãy giụa trên trang giấy, những trang viết ấy tựa như “một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm”.
“Con sông Đà gợi cảm” – câu văn như một lời khẳng định chắc chắn. Qua góc nhìn của người đi rừng lâu ngày gặp lại sông Đà, của người trôi thuyền trên sông phía hạ lưu và góc nhìn của cố nhân, sông Đà hiện lên bởi những hình ảnh của quá khứ hiện tại và tương lai với điểm nhìn cận cảnh. Trong tầm mắt người thưởng ngoạn, dòng sông hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ, “đối với mỗi người, sông Đà gợi một cách”. Và đối với nhà văn, đã có lần ông nhìn sông Đà như một cố nhân, như một người bạn cũ lâu ngày gặp lại. Nhà văn kể rằng: chuyến ấy, ông đi rừng núi cũng hơi lâu, và khi về, nhìn thấy sông Đà loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy, từ xa lại gần, ông háo hức như tìm lại được người tri kỉ cũ. Một màu nắng tháng ba Đường Thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” hiện lên trang văn, nhưng cũng như một bức vẽ nắng sinh động, ta cũng như thấy vui khi nghĩ đến cảnh tượng nắng lấp lánh trải lên nước sông xanh biếc. Và ta lại chẳng lạ gì khi cảm nhận được niềm vui sum vầy “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Lòng ta cũng rộn rã “giòn tan” như nắng, lòng ta cũng như đi vào cơn mộng đẹp vô ngần trong giấc say. Và khi ấy, cảm giác của người đi xa về nhận mặt từng cảnh vật, từ “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà” thật sự khiến người nghệ sĩ phải đắm say: “đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dù người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”. Sông Đà đã trở thành người bạn thủy chung, nặng tình nặng nghĩa luôn đợi người lữ khách Nguyễn Tuân.
Leonit Leonop đã từng khẳng định: “Một tác phẩm phải là một phát minh về hình thức, một khám phá về nội dung.” Bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ của con sông, Nguyễn Tuân còn đưa người đọc lạc vào thế giới cổ tích, thế giới tiền sử. Câu văn “thuyền tôi trôi trên sông Đà” toàn vần bằng tạo cảm giác yên ả, thanh bình, sự tĩnh lặng. Tác giả hướng đến lịch sử của những buổi đầu dựng nước và giữ nước: “Hình như từ đời Trần, đời Lý, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi.” Sự yên tĩnh, “lặng tờ” ấy càng làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ và hồng hoang của đôi bờ sông Đà. Đúng như tác giả đã so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa”. Phép so sánh độc đáo, dùng không gian để gợi mở thời gian, mở rộng biên độ làm nổi bật vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, nguyên thủy của buổi sơ khai. Hai chữ “lặng tờ” được nhắc đi nhắc lại tới hai lần theo kiểu trùng điệp rất đặc thù của thơ, không gian vắng lặng nhưng không thể “lặng tờ” hơn được nữa. Du khách đang đi thuyền trên quãng sông này nhưng lại có cảm giác mình đang đi ngược về quá khứ xa xôi.
Theo dòng trôi của con thuyền, người đọc đi vào thế giới hoang sơ, tĩnh mịch, bao trùm cảnh vật là một màu xanh hoang sơ, hồn nhiên. Cũng thấy nương ngô “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, đã có dấu ấn của con người in trên màu xanh mỡ màng ấy, nhưng thật vô cùng ngạc nhiên “mà không một bóng người”. Chỉ có đồi gianh nối tiếp đồi gianh trùng điệp với những “nõn búp” ngon lành. Hình ảnh đàn hươu xuất hiện trên màu xanh bát ngát những đồi gianh là một nét vẽ tài hoa làm cho bức tranh thiên nhiên sông Đà đượm màu “hoang dại” và “cổ tích”. Không phải chú nai vàng ngơ ngác trong cái xào xạc của lá thu rơi thuở nào mà ở đây chỉ có: “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa”. Nguyễn Tuân so sánh không phải để cụ thể hóa sự vật mà là trừu tượng hóa, thơ mộng hóa cảnh vật. “Bờ tiền sử”, “nỗi niềm cổ tích xưa” là chữ của nhà văn bậc thầy ngôn ngữ này. Nhà văn không dựa vào trực giác để so sánh, ông đã dùng tưởng tượng để tạo nên những liên tưởng, những so sánh đầy chất thơ và rất kỳ thú, gieo vào tâm hồn người đọc bao cảm xúc, để cùng ông tận hưởng cái vẻ đẹp “hoang dại” và hồn nhiên” của Đà giang. Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “Dải Đà bọt nước lênh đênh/ Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của một người tình nhân chưa quen biết càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút. Áng văn sông Đà thơ mộng trữ tình tựa như một đoạn phim chuyển cảnh từ tĩnh qua động để rồi tĩnh lặng hơn.
Sông Đà hiện ra như một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, vừa là một con sông hung bạo gây bao khó khăn, nguy hiểm cho con người Tây Bắc, vừa là một dòng sông rất đỗi trữ tình, tạo nên nét thơ mộng cho cảnh sắc đất nước, Sông Đà quả là “chất vàng” của Tây Bắc. Qua hình tượng Sông Đà, văn phong tài hoa, uyên bác cùng tình yêu đất nước của Nguyễn Tuân thật sự để lại ấn tượng sâu sắc nơi người đọc.
4. Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình nên thơ của con sông Đà:
Nguyễn Tuân là một nhà văn uyên bác, tài hoa. Trong các tác phẩm của ông, Người lái đò sông Đà đã để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc. Tác phẩm đã ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Nổi bật nhất là hình tượng con sông Đà với vẻ thơ mộng, trữ tình.
“Người lái đò Sông Đà” là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến Tây Bắc, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là một trong 15 bài tùy bút in trong tập Sông Đà (1960) – tập tùy bút cho thấy diện mạo của một Nguyễn Tuân đã căn bản thay đổi để trở thành một nhà văn mới trong thời đại mới.
Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ, hiểm nguy của một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sông, cảnh ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, cảnh những hút nước rùng rợn; cảnh thác đá gào thét; dòng sông với biết bao cửa tử cửa sinh… Cuối đoạn trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông.
Bên cạnh sự hung bạo, sông Đà còn hiện lên với những nét nên thơ, trữ tình. Nguyễn Tuân quan sát sông Đà với nhiều góc độ. Đầu tiên là góc từ trên cao nhìn xuống, tác giả hình dung con sông Đà quyến rũ như một thiếu nữ với mái tóc buông dài hòa vào vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống con người Tây Bắc. Dòng sông Đà không chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân” Trong câu văn của Nguyễn Tuân, có thể thấy sông Đà đã nhận thêm vào dòng chảy của mình nét thơ mộng, huyền ảo của mây trời, sự tươi tắn, rực rỡ của hoa ban, hoa gạo tháng hai và đặc biệt là cái ấm áp, gần gũi thân yêu của làn khói núi Mèo đốt nương xuân. Cách miêu tả của Nguyễn Tuân đã cho thấy vẻ đẹp của sông Đà làm say mê trái tim nghệ sĩ trước hết vì nó là vẻ đẹp của Tổ quốc bao la, sau nữa vì nó gắn bó gần gũi, thân thiết với cuộc sống con người. Nhà văn của những vẻ đẹp Vang bóng một thời nay đã có sự thay đổi cơ bản trong quan niệm thẩm mĩ: Cái đẹp không còn cô đơn, lạc lõng xa xôi, cái đẹp hiện diện ngay trong cuộc sống đời thường của những người lao động bình thường.
Nguyễn Tuân đã có sự quan sát thật tỉ mỉ, ngắm con sông ở nhiều thời điểm để phát hiện sự thay đổi của sắc nước, tạo nên nét đẹp đặc trưng của nước sông Đà. Qua làn mây mùa xuân, nước sông Đà xanh màu ngọc bích. Đó là dòng xanh ngọc bích trong sáng, quý giá và êm nhẹ của sông Đà mùa xuân Đó còn là sự thiên vị của một niềm yêu khi so sánh với “màu xanh canh hến” của sông Gâm, sông Lô. Qua ánh nắng mùa thu, nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Hình ảnh so sánh nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về” đã không chỉ làm hiện lên màu sắc rất đặc trưng của nước sông Đà mùa thu mà còn thể hiện sức mạnh tiềm tàng, ẩn chứa những đe dọa của một dòng sông vẫn muôn đời báo oán, đánh ghen với con người.
Tâm hồn con sông Đà như một cố nhân. Tác giả tiếp tục bộc lộ những cảm xúc khi sắp gặp lại dòng sông, nhìn dòng sông “thấy loang loáng như đứa trẻ con nghịch chiếu gương vào mặt mình rồi bỏ chạy” là cái nhìn của của người chưa ra đến cửa rừng, chỉ mới thấy từng miếng sáng của dòng sông lấp lánh ánh nắng của những vật cây rừng mà đã háo hức, bồn chồn, vội vàng, khao khát. Khi liên tưởng mặt sông giống như “cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”, Nguyễn Tuân đã đem đến cho sông Đà vẻ lãng mạn huyền ảo của hoa khói, sự trong sáng rực rỡ của sắc xuân, cái bâng khuâng vời vợi nhớ nhung trong câu thơ được coi là Thiên cổ lệ cú của Lí Bạch “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Cảm xúc gặp lại sông Đà cũng được cụ thể hóa trong những so sánh bất ngờ, thú vị: “Chao ôi! Trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Nối lại chiêm bao đứt quãng là một việc gần như không thể có trong cuộc đời mỗi con người. Hình ảnh so sánh cho thấy, sự nối lại giấc mơ càng hi hữu, hiếm quý bao nhiêu, càng đem đến cảm giác sung sướng, thú vị bấy nhiêu cho tác giả khi gặp lại dòng sông thân thương. Gặp lại dòng sông thì nhiều lần, nhưng với tác giả thì vẫn như là lần đầu tiên, lần cuối cùng, lần duy nhất.
Bờ sông ở đây còn nổi lên vẻ đẹp của thảm thực vật và muông thú. Câu văn mở đầu đoạn “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà” hoàn toàn là thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng, mơ màng như tái hiện hình ảnh con thuyền êm ái, nhẹ nhàng trôi xuôi. Những so sánh, liên tưởng giàu hình ảnh đã gợi ra vẻ thơ mộng, yên tĩnh, huyền ảo của sông Đà. Hình ảnh “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp” vừa gợi tả sự trùng điệp của những đồi cỏ gianh nối tiếp nhau đến tận những dãy núi xa xăm, vừa gợi ra hình ảnh sinh sôi, nảy nở, tràn đầy sức sống của những “nõn búp”. Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi” với hình ảnh so sánh độc đáo vừa gợi tả âm thanh (tiếng quẫy), vừa cho thấy màu sắc (sắc trắng như bạc), vừa chỉ rõ dáng hình (thon dài như thoi) của những đàn cá dầm xanh quý hiếm và con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt nước lênh đênh… bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.
Đoạn văn đã sử dụng hình ảnh miêu tả tràn đầy sức sống, gợi lên sự trù phú, tô điểm thêm cho vẻ đẹp trữ tình của sông Đà. Sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.
Đoạn văn trên đây chỉ là một đoạn ngắn trong bài tùy bút Người lái đà Sông Đà, chỉ nói về một nét đẹp – vẻ đẹp thơ mộng – của Đà Giang ở quãng trung lưu. Tuy vậy, ta vẫn cảm thấy được cái hay, cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân. Một chất thơ tỏa rộng, man mác. Một ngòi bút nhiều khám phá, sáng tạo và kiến tạo trong tạo hình dựng cảnh, trong dùng chữ, đặt câu. Những so sánh, ẩn dụ và liên tưởng rất gợi. Đây là một đoạn hay và đẹp nói về hương sắc đất nước. Chất tài hoa, tài tử, cái bề thế độc đáo, sắc sảo và uyên bác của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân để lại dấu ấn trên “trang hoa”, “tờ hoa” này.. Người đọc vẫn cảm thấy mình trở thành “ông khách sông Đà” đang cùng con thuyền nhẹ trôi trên Đà Giang cùng với bác Nguyễn say mê ngắm cảnh đẹp của hương núi, hoa ngàn và lắng nghe tiếng cá dầm xanh quẫy trên cái lững lờ của dòng sông “dải sông Đà bọt nước lênh đênh…”.
THAM KHẢO THÊM: