Đây thôn Vĩ Dạ như chính tiếng lòng của Hàn Mặc Tử trong những năm tháng cuối đời. Ở đó chúng ta tìm thấy sự cô đơn, tìm thấy sự khát khao yêu và được yêu, khát khao nắm giữ hạnh phúc và có cả sự tiếc nuối cho chính cuộc đời của tác giả. Sau đây là bài văn mẫu để các bạn cùng tham khảo.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý cảm nhận về con người của Hàn Mặc Tử qua Đây thôn Vĩ Dạ:
Mở bài:
Hàn Mặc Tử là nhà thơ có cái tôi rõ nét trong phong trào thơ mới. Thông thường, đặc trưng thơ của ông được thể hiện rõ nét nhất trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.
Thân bài:
Hàn Mặc Tử là người yêu thiên nhiên, cuộc sống:
– “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” vừa là câu hỏi vừa là lời mời. Bài thơ nhẹ nhàng nhớ về một nhân vật xưa, có một cô gái Huế mà tác giả yêu. Biết bao kỉ niệm ùa về trước khung cảnh trữ tình của thiên nhiên.
– “Nắng mới lên” là ánh nắng mới, không quá gay gắt, là ánh nắng dịu nhẹ khiến ai cũng dễ chịu.
– Ấn tượng nhất là hình ảnh “lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Từ “điền” ở đây có thể chỉ hình ảnh ô cửa sổ ngôi nhà, hay cũng có thể chỉ những thoáng nhìn về cô gái xứ Huế có gương mặt thân thiện, phúc hậu xứ Huế.
→ Dù không thể về thăm thôn Vĩ Dạ nhưng nhà thơ Hàn Mặc Tử vẫn giữ trọn những hình ảnh với một tình cảm vô cùng quý mến. Thôn Vĩ là giấc mộng lớn của ông, nhưng cũng đầy chất thơ, lời ca.
Hàn Mặc Tử là một người cô đơn
– Khổ thơ thứ hai của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là tâm trạng buồn, nhớ nhung của nhà thơ Hàn Mặc Tử: “Gió theo lối gió, mây đường mây … Có chở trăng về kịp tối nay.”
– Với thủ pháp nhân cách hóa, nước cũng có vẻ buồn theo tâm trạng của tác giả. Nhịp chia 4/3; trạng thái của bài thơ cũng sâu sắc hơn.
– “Gió theo lối gió, mây đường mây” vạn vật đều chia đôi xa gần như chính câu chuyện của tác giả.
– “Thuyền ai” gợi cảm giác vừa quen vừa lạ.
→ Hàn Mặc Tử như tô điểm cho tâm trạng của câu thơ, ở đâu ông cũng muốn được yêu nhưng không có đủ thời gian.
-
Hàn Mặc Tử – con người đầy trăn trở, day dứt
– Khổ thơ thứ ba cũng là khổ thơ cuối của bài thơ, là tình cảm của tác giả dành cho người con gái xứ Huế: “Mơ khách đường xa, khách đường xa … Ai biết tình ai có đậm đà”.
– Con người và cảnh vật mờ dần và biến mất. “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, vạn vật như quyện vào nhau, khó mà phân biệt rõ ràng.
– “Ai biết tình ai có đậm đà”, nhà văn hoài niệm rồi lại nghĩ ngợi, vỡ mộng.
→ Hàn Mặc Tử trở về hiện tại, cảm nhận rõ hơn ảo ảnh, xa cách của sự hạnh phúc, để rồi lại thở dài nhớ mong.
Kết bài:
Hàn Mặc Tử là một con người đầy hy vọng và lo lắng. Thơ ông để lại cho người đọc sự day dứt và ám ảnh bởi một nỗi buồn không thể xóa nhòa.
2. Cảm nhận về con người của Hàn Mặc Tử qua Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất:
Hàn Mặc Tử như một vì sao huyền ảo trên bầu trời rực rỡ muôn vàn vì sao lạ tỏa sáng. Thơ Hàn Mặc Tử thể hiện cả tình yêu khôn cùng với cuộc sống trần tục và hướng về đất trời với những niềm thanh khí thần tiên. Có nhiều hướng để tiếp nhận kiệt tác “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử. Ai cũng thấy bài thơ nói về tình yêu – một tình yêu đơn phương, nên thơ, trong sáng, giàu sức tưởng tượng. Dù vậy, khó có thể phủ nhận rằng Hàn Mặc Tử đã nói khá hay về Huế mộng mơ và thơ ca. “Đây thôn Vĩ Dạ” chỉ có 3 khổ thơ, tổng cộng 12 câu thất ngôn.
Bài thơ có lẽ là một lời khuyên dạy thầm lặng và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình trong không khí nhớ thương:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”
Nếu mỗi mối tình đều gắn liền với một không gian và thời gian nhất định thì mỗi hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ này đều gắn liền với khu vườn và con người Vĩ Dạ, tất cả đều là những kỉ niệm khó quên. Nếu có dịp, hãy ghé thăm thôn Vĩ vào buổi sáng sớm. Vĩ Dạ nằm ngay bên bờ sông Hương êm đềm và thơ mộng, chỉ cách trung tâm cố đô Huế khoảng một giờ đi bộ. Từ xa xưa, thôn Vĩ Dạ đã nổi tiếng với cây cối xanh tươi cùng những ngôi biệt thự duyên dáng tắm mình trong màu xanh của cây lá. Nhắc đến thôn Vĩ Dạ, không thể không nhắc đến sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ… Bởi vậy, không quá ngạc nhiên khi thấy nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như Nguyễn Bính, Bích Khuê, Nguyễn Tuân… đều có cảm xúc dạt dào với thôn Vĩ Dạ.
Sáng sớm, ánh nắng mới chiếu rọi trên những tàu cau còn ướt sương đêm. Du khách từ xa nhìn thấy hàng cau trước tiên vì nó thường cao hơn những cây sum suê bên dưới. Đất Vĩ Dạ màu mỡ, người dân cần mẫn bón phân. Quả thật, cây cối ở đây xanh tươi, tinh khiết như được gột rửa sạch sẽ, bóng loáng như cành vàng lá ngọc….
Câu thơ: Lá trúc che ngang mặt chữ điền? Thật là một sự sáng tạo độc đáo. “Mặt chữ điền” gợi cho người đọc hình ảnh những người có khuôn mặt vuông vức, thân hình cường tráng, nam tính. Tuy nhiên, khi hình ảnh này được đưa vào lời thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” lại gây ấn tượng nổi bật bởi sự hài hòa, gắn bó giữa con người với mảnh vườn quê hương. Như vậy, câu thơ cũng diễn tả thành công một đặc điểm đáng nhớ về thôn Vĩ: Cảnh đẹp, tươi tốt; con người thân thiện tràn đầy sức sống.
Tiếp nối mạch cảm xúc của khổ thơ đầu, ở khổ thơ thứ hai dường như nhà thơ nhập vai tả có sắc điệu cảnh sóng nước, mây trời, đồng thời bộc lộ một nỗi nhớ da diết:
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay;
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Nhịp điệu mềm mại, nhẹ nhàng của xứ Huế được khắc họa thành công: gió mây trôi nhè nhẹ; dòng sông hương lặng lẽ chảy. Hoa ngô đung đưa nhẹ nhàng trong gió. Khác với khổ thơ đầu, khổ thơ thứ hai này miêu tả không gian như một giấc mơ tràn ngập ánh trăng. Nhà thơ không chỉ cho ta thấy bằng mắt, mà quan trọng nhất là “thấy” bằng thế giới tâm hồn của ta: Bởi thế, giữa thực và mộng không có biên giới, tưởng chừng như tận cùng thế giới. Thế giới tâm linh, thế giới kì ảo chiếm lĩnh thế giới thực. Vì là mộng ảo nên nảy sinh một trăn trở rất mộng mơ: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay”. Thuyền trăng thì không ít thi nhân nhắc đến. Nhưng “Sông trăng” thì có lẽ Hàn Mặc Tử là người sáng tạo đầu tiên. Những câu thơ trên dường như có sự chờ mong, hi vọng và cả nỗi buồn của nhà thơ, rõ ràng nó không có nét riêng của một phong cách diễn tả chính xác hồn quê, mà quan trọng hơn: những nét phác này đánh thức tình yêu nơi người đọc. Nó tế nhị, không phô trương, nhưng sâu lắng và rộng mở vô hạn. Nhà thơ nhấn mạnh ấn tượng của người đọc trong khổ thơ cuối:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Đúng là ở cố đô Huế mưa nhiều, sương mù nhiều. Vậy khổ thơ trên có tả thực như “hàng cau”, “lá tre”, “hoa ngô”… ở các khổ thơ trước không. Nếu nhà thơ chỉ thấy bóng người (hình ảnh con người) thì cũng dễ hiểu. Tuy nhiên, như đã nói, Hàn Mặc Tử vốn là một nhà thơ lãng mạn đích thực, cái chính là nhà thơ nói từ trái tim, gieo vào lòng người đọc một thoáng bùi ngùi: Thiếu nữ Huế đẹp quá, bí ẩn quá, hư ảo quá; Biết đâu tình mình đậm đà hay mờ ảo như sương xứ Huế? Ở đây, tác giả dường như cảm thấy mình đang chới với thất vọng trước mối tình đơn phương chập chờn, huyền ảo. Hàn Mặc Tử là một người rất tài hoa, luôn khao khát tình yêu; nhưng căn bệnh hiểm nghèo đã ngăn cản ông có được tình yêu trọn vẹn. Nhà thơ phải sống một mình, trên con thuyền nhỏ không bến bờ, ở vùng núi ven thành phố và cuối cùng phải chờ chết bất lực trong bệnh viện Tuy Hòa. Phải yêu người Vĩ Dạ, yêu người Huế; gắn bó với Huế sâu sắc thì nhà thơ mới có thể viết nên những tứ thơ tuyệt đẹp đến vậy.
3. Cảm nhận về Hàn Mặc Tử qua Đây thôn Vĩ Dạ ý nghĩa nhất:
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” như tiếng lòng của Hàn Mặc Tử trong những năm tháng cuối đời. Ở đó ta thấy sự cô đơn, ta thấy khát vọng yêu và được yêu, khát vọng gìn giữ hạnh phúc và cả sự tiếc nuối cho chính cuộc đời của tác giả.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Bức tranh thôn Vĩ được vẽ trong tác phẩm của Hàn Mặc Tử. Lúc viết bài thơ này cũng là lúc ông đang chữa bệnh. Mọi thứ thuộc về thôn Vĩ giờ chỉ còn là miền ký ức. Bài thơ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” có thể hiểu là một câu hỏi; nhưng nó cũng có thể là một lời mời. Thôn Vĩ đẹp quá sao anh không về chơi, anh về thôn Vĩ đã bao lâu rồi? Những lời quở trách, mời gọi nhẹ nhàng thân thương nhưng gợi lại biết bao kỷ niệm.
Hàn Mặc Tử yêu thiên nhiên thôn Vĩ Dạ ở “nắng hàng cau” và “vườn xanh mướt”. Hình ảnh “nắng mới” tạo cảm giác vô cùng ấm áp và dịu dàng. Đó là một buổi sáng mặt trời rất đẹp. Ánh sáng này cũng giúp khu vườn trở nên “xanh dịu như ngọc bích”. Không gian rộng lớn hơn, tươi mới và tràn đầy sức sống.
Thiên nhiên và con người thôn Vĩ Dạ luôn làm Hàn Mặc Tử xao xuyến khôn nguôi. “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Từ “điền” có nhiều nghĩa khác nhau, đó có thể là hình ảnh khung cửa sổ có mái che hay khuôn mặt cô gái Huế dịu dàng, e ấp ẩn sau lũy tre lá. Hàn Mặc Tử bồi hồi, ôm ấp những kỉ niệm, vẻ đẹp của con người và thiên nhiên xứ Huế. Ông muốn trở lại nơi này với nhiều cảm xúc trong lòng.
Nhà thơ Hàn Mặc Tử dường như đã chấp nhận nỗi buồn, ông có một cái tôi buồn man mác.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Nhịp 4/3 kết hợp với các hình ảnh “gió, mây, hoa, trăng, thuyền” tạo nên một hình ảnh độc đáo. Hàn Mặc Tử đã làm cho thôn Vĩ càng rộng ra, thời gian chuyển từ ánh sáng sang bóng tối. Tâm trạng nhà thơ cũng chuyển từ vui tươi, luyến tiếc sang “dòng sông buồn thiu”. Giống như lời rằng “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”
“Gió theo lối gió, mây đường mây” là một cấu trúc hài hòa, cân xứng; để tạo khoảng cách, để ngăn cách. “Thuyền ai” neo bên bờ sông gợi nhớ những câu ca Huế đẹp mà buồn. Con thuyền còn gợi liên tưởng đến mặt trăng tạo nên vẻ hùng vĩ của tự nhiên; Nhưng đó cũng là lý do tại sao con người cảm thấy mình nhỏ bé hơn. Hàn Mặc Tử đã sử dụng hình ảnh này rất sáng tạo nhưng lại tô vẽ thêm vẻ cô đơn, buồn bã. Câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối nay” vừa là lời nhắc nhở, vừa là lời dặn dò. Thời gian bên thi nhân quý giá hơn bao giờ hết. Khổ thơ là một lời tâm tình buồn, trong đó ông bày tỏ niềm khao khát hạnh phúc, những lời cầu mong của ông rất đỗi nghẹn ngào.
Bước sang khổ thơ cuối, Hàn Mặc Tử mộng tưởng về thực tại, về con người, hoài nghĩ về ảo ảnh.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Ở khổ thơ cuối cùng này, mọi thứ dường như bị xóa nhòa đi. Chiếc áo trắng tinh khôi của em hòa lẫn vào sương khói vừa thực vừa hư ảo. Hàn Mặc Tử càng cảm thấy bối rối vì không xác định được tình cảm của mình. Tình yêu này có thật hay chỉ là một màn sương không thể nắm bắt.
Nhà thơ sử dụng liên tục toàn bộ điệp khúc “ai biết”, “thuyền ai”, “tình ai”; Nó cũng tạo ra nỗi buồn và sự xa lánh. Cảm giác hụt hẫng xen lẫn hy vọng khiến ông thở dài trong niềm hy vọng mong manh.
Các hình ảnh trong bài thơ vô cùng ăn nhập với nhau, có cảnh và người; có hiện thực và hư ảo. Bằng những lời thơ dịu dàng, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một cái tôi của Hàn Mặc Tử yêu thiên nhiên tha thiết bên cạnh những đau buồn, dự cảm, tuyệt vọng và hoài nghi.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ hay nhất, nó thể hiện rõ con người Hàn Mặc Tử Mặc dù trong lòng nhiều xáo trộn nhưng nhiều hi vọng. Mỗi dòng thơ ám ảnh như để lại dấu ấn trong rừng thơ Việt Nam, dù nhỏ nhoi nhưng day dứt.